I. KINH TẾ 1. Sản xuất công nghiệp Để thực hiện mục tiêu được tăng trưởng kinh tế hai con số năm 2025, Tỉnh ủy - UBND tỉnh đã có hàng loạt quyết sách đặt ra từ đầu năm đến nay. Những quyết sách của tỉnh sau khi ban hành đã được cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân nỗ lực hành động, đem lại kết quả tích cực. Nhờ đó, lĩnh vực công nghiệp trong 8 tháng năm 2025 ghi nhận một số kết quả nổi bật với những tín hiệu phục hồi tích cực; đặc biệt, sự gia tăng năng lực sản xuất của một số nhóm ngành công nghiệp then chốt đã tạo động lực lớn giúp các cấp quản lý và nhà đầu tư tiến gần hơn đến mục tiêu đã đề ra. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) trong tháng 8 năm 2025 ước tăng 1,89% so tháng trước, trong đó: Ngành công nghiệp khai khoáng giảm 1,42%; Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 1,98%; Ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí giảm 0,1%; Ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 0,53% so tháng trước. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) trong tháng 8 năm 2025 ước tăng 20,01% so cùng kỳ năm trước, trong đó: Ngành công nghiệp khai khoáng tăng 8,23%; Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 20,37%; Ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 14,06%; Ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 10,32% so cùng kỳ năm trước.Các ngành đều có chỉ số sản xuất tăng so tháng trước, trong đó: In, sao chép bản ghi các loại (+7,26%); Sản xuất máy móc, thiết bị chưa được phân vào đâu (+5,81%); Sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu (+4,12%); Sản xuất kim loại (+3,94) ... Tính chung 8 tháng năm 2025, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng 13,95% so cùng kỳ năm trước. Trong đó: Công nghiệp khai khoáng tăng 6,67%; Công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 14,46%; Công nghiệp sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 3,23%; Công nghiệp cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 8,29% so cùng kỳ năm trước. Trong các ngành công nghiệp cấp II, một số ngành có chỉ số sản xuất tăng cao so cùng kỳ năm trước như: Sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác (+45,01%); Sản xuất máy móc, thiết bị chưa được phân vào đâu (+ 26,89%); Công nghiệp chế biến, chế tạo khác (+22,12%); Sản xuất kim loại (+21,12%); Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic (+19,03%); Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) (+15,57%)... Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu trong tháng 8 năm 2025 có mức tăng cao so cùng kỳ năm trước như: Bê tông trộn sẵn (bê tông tươi) tăng 4,4 lần; Mạch điện, tủ điện, sản phẩm điện tử khác (+157,21%); Thuốc lá sợi (+48,75%); Thuốc trừ sâu (+32,06%); Quần áo các loại (trừ quần áo thể thao) (+24,53%); Săm, lốp các loại (+23,82%); Giường, tủ, bàn ghế (+21,92%)... Bên cạnh đó một số sản phẩm có mức tăng thấp so cùng kỳ năm trước như: Vải các loại (+2,13%); Thức ăn gia súc, gia cầm, thuỷ sản (+2,50%). Tính chung 8 tháng năm 2025 nhiều sản phẩm công nghiệp có khối lượng tăng vượt trội so với cùng kỳ, nhờ mở rộng và tìm kiếm được thị trường tiêu thụ, một số doanh nghiệp đã tăng tốc sản xuất sản phẩm đáp ứng nhu cầu đơn hàng ký kết, góp phần tăng trưởng của chỉ số IIP trên địa bàn tỉnh như: Bê tông trộn sẵn (bê tông tươi) (+64,64%); Thép dạng thô và bán thành phẩm (+25,45%); Mạch điện, tủ điện, sản phẩm điện tử khác (+18,93%); Thuốc trừ sâu (+17,89); Săm, lốp các loại (+17,85%); Máy giặt (+15,33%); Giày dép các loại (+14,56%)... Ở chiều ngược lại, nhiều sản phẩm công nghiệp có sản lượng giảm hoặc có mức tăng thấp so với cùng kỳ năm 2024 như: Vải các loại (-0,13%); Điện sản xuất (+1,55%); Thức ăn gia súc, gia cầm, thuỷ sản (+3,16%). Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tháng 8 năm 2025 tăng 3,74% so tháng trước và tăng 0,50% so cùng kỳ năm 2024. Theo ngành hoạt động, số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp ngành khai khoáng tăng 0,7% so với tháng trước và giảm 1,36% so với cùng kỳ năm trước; số lao động trong ngành chế biến, chế tạo tăng 0,51% và tăng 3,58%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 0,04% và tăng 23,9%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 0,19% và giảm 0,74%. Tính chung 8 tháng năm 2025, chỉ số sử dụng lao động tăng 6,27% so với cùng kỳ, trong đó ngành khai khoáng có chỉ số sử dụng lao động giảm 2,34%; Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 6,36%; Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí tăng 4,29%; Cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 1,17% so với cùng kỳ năm trước. 2. Sản xuất Nông - Lâm nghiệp và thủy sản Sản xuất nông nghiệp đảm bảo tiến độ gieo trồng và thu hoạch trong khung thời vụ tốt nhất, tình hình sâu bệnh được kiểm soát chặt chẽ. Tình hình chăn nuôi có phát sinh dịch bệnh tuy nhiên vẫn trong tầm kiểm soát. Hoạt động sản xuất lâm nghiệp diễn ra tương đối thuận lợi, công tác khai thác gỗ được triển khai tích cực. a) Nông Nghiệp Cây hàng năm: Thời tiết đang trong mùa mưa, đến nay vụ Đông Xuân, vụ Hè Thu đã thu hoạch xong, nên người dân bắt đầu xuống giống cây trồng vụ Mùa; Đối với cây lâu năm người dân tiếp tục thu hoạch một số cây trồng lâu năm. Thị trường tiêu thụ các mặt hàng nông sản ổn định, giá cả các mặt hàng nông sản có xu hướng tăng. Tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm ước đến ngày 15/8/2025 là 121.182,56 ha, tăng 63,69 ha (+0,05%) so cùng kỳ, cụ thể như sau: Cây lúa là 48.611,98 ha, tăng 65,68 ha (+0,14%) so cùng kỳ, bao gồm: Diện tích lúa vụ Đông Xuân 18.550,39 ha (+0,82%); vụ Hè Thu 18.463,74 ha (-0,25%) và vụ Mùa 11.597,85 ha (-0,33%). Diện tích lúa tăng so với cùng kỳ năm trước do các hệ thống mương tưới tiêu của một số xã trên địa bàn được chỉnh trang nạo vét và một số tuyến tự dẫn nước của người dân, đảm bảo nguồn nước tưới trong vụ Đông Xuân. Đồng thời giá lúa ổn định nên người dân các xã mạnh dạn đầu tư trồng lúa. Cây bắp (ngô) là 26.831,88 ha, tăng 188,54 ha (+0,71%), nguyên nhân diện tăng do chuyển đổi từ cây hàng năm khác và trồng trên diện tích đất dự án chưa sử dụng. Đậu tương 241,48 ha, tăng 0,71 ha (+0,29%) so với cùng kỳ năm trước; Khoai lang 260,96 ha, giảm 17,18 ha (-6,18%); Lạc 825,23 ha, giảm 49,44 ha (-5,65%). Diện tích giảm chủ yếu là do trồng trên đất dự án nên có một số dự án thu hồi để xây dựng, giá bán liên tục giảm, người dân không thu được lợi nhuận, do đó chuyển đổi qua cây hàng năm khác. Rau các loại 14.835,71 ha, tăng 7,85 ha (+0,05%); Đậu các loại 2.952,93 ha, tăng 29,42 ha (+1,01%) so cùng kỳ. Thời tiết thuận lợi cho việc gieo trồng và phát triển, thị trường tiêu thụ ổn định, dễ chăm sóc nên người dân tập trung gieo trồng là một trong những nguyên nhân khiến diện tích các loại cây này tăng so với cùng kỳ năm trước. Cây lâu năm: Tình hình sản xuất cây lâu năm trên địa bàn phát triển tương đối ổn định; lượng mưa đều nên người nông dân bắt đầu trồng mới một số cây lâu năm; Tiếp tục tập trung nhiều vào khâu chăm sóc, làm cỏ, bón phân, phun thuốc trừ sâu cho cây trồng. Sâu bệnh phát sinh chủ yếu ở một số cây như: bệnh chết chậm, bệnh thán thư trên cây tiêu; bệnh bọ xít muỗi, sâu đục thân trên cây điều; bệnh phấn trắng, phấn hồng trên cây cao su; bệnh sâu vẽ bùa, sâu đục thân trên cây ăn trái... làm ảnh hưởng đến sự phát triển của cây trồng, tuy nhiên chỉ ở thể nhẹ nên không ảnh hưởng nhiều đến năng suất. Chăn nuôi: Tình hình chăn nuôi trên địa bàn trong tháng tương đối ổn định, mặc dù có phát sinh dịch bệnh tuy nhiên vẫn trong tầm kiểm soát, do đó công tác tái đàn đối với con heo và gia cầm ở nhiều hộ và trang trại chăn nuôi lớn vẫn diễn ra ổn định. Tổng đàn gia súc có đến thời điểm tháng 8/2025 là 4.052.799 con, tăng 46.413 con (+1,16%) so cùng kỳ. Trong đó: Trâu 16.444 con, tăng 10 con (+0,06%) so cùng kỳ; Bò đạt 149.776 con, tăng 656 con (+0,44%) so cùng kỳ; Số lượng đàn trâu, bò tăng là do sản phẩm thịt gia súc phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng xã hội cao, nên các hộ chăn nuôi trâu, bò đầu tư thêm con giống để nuôi; Đàn heo 3.886.579 con (không tính heo con chưa tách mẹ), tăng 45.747 con (+1,19%) so cùng kỳ. Quy mô các trang trại tăng, hệ thống chuồng trại cũng như công tác vệ sinh, an toàn dịch bệnh được chú trọng đầu tư nâng cấp khiến việc tái đàn diễn ra ổn định nhưng vẫn giúp kiểm soát dịch tốt hơn, giá heo hơi trên địa bàn Đồng Nai bình quân trong tháng 8 là 65.000 đồng/kg, qua đó tạo động lực cho các trang trại quy mô lớn đẩy mạnh tái đàn. Tổng đàn gia cầm có đến thời điểm tháng 8/2025 là 36.198,99 ngàn con, tăng 836,85 ngàn con (+2,37%) so cùng kỳ; trong đó đàn gà đạt 32.920,53 ngàn con tăng 1.034,96 ngàn con (+3,25%) so cùng kỳ và chiếm 90,94% tổng đàn gia cầm. Nguyên nhân đàn gà tăng chủ yếu nhờ nhu cầu ổn định về thịt gà và trứng, cùng với việc tiêm phòng và kiểm soát dịch bệnh nghiêm ngặt, hạn chế tác động của cúm gia cầm và các bệnh truyền nhiễm, tạo điều kiện thuận lợi để người chăn nuôi mạnh dạn tăng đàn. Tình hình dịch bệnh và công tác phòng chống dịch: Công tác phòng ngừa bệnh và tiêm chủng tốt, nhưng trong giai đoạn chuyển mùa, thời tiết thất thường là nguyên nhân có thể làm xuất hiện và lây lan nhiều dịch bệnh trên gia súc, gia cầm. Tính đến 10/8/2025, tỉnh Đồng Nai đã ghi nhận 24 ổ dịch ở 20 xã, buộc tiêu hủy 4.115 con heo do mắc bệnh hoặc chết. Các dịch bệnh như tai xanh, dại chó mèo, viêm da nổi cục, lở mồm long móng, cúm gia cầm không phát sinh. b) Lâm nghiệp Tình hình trồng rừng và chăm sóc, nuôi dưỡng rừng trên địa bàn tỉnh phát triển ổn định. Rừng trồng sinh trưởng phát triển tốt, đảm bảo chức năng phòng hộ, chống xói mòn, sạt lở, cố định đất, bảo vệ môi trường và tạo cảnh quan thiên nhiên. Công tác quản lý bảo vệ rừng được duy trì và tăng cường, các vụ vi phạm lâm luật giảm đáng kể. Bên cạnh đó, công tác giao khoán đất lâm nghiệp hợp lý và hiệu quả đã góp phần nâng cao năng lực quản lý và phát triển ngành lâm nghiệp trên địa bàn. Tháng 8/2025 xuất hiện nhiều đợt mưa lớn nên các đơn vị lâm nghiệp tập trung vào trồng lại diện tích rừng đã thu hoạch. Dự ước diện tích rừng trồng mới trong tháng 8/2025 đạt 593,99 ha, tăng 25,73 ha (+4,53%) so với cùng kỳ. Lũy kế 8 tháng đầu năm 2025 diện tích rừng trồng mới ước đạt được 2.898,76 ha, giảm 56,59 ha (-1,91%) so với cùng kỳ. Trong tháng 8/2025 sản lượng gỗ khai thác dự ước đạt 33.144,85 m3, tăng 0,6% so với tháng cùng kỳ; Lũy kế 8 tháng đầu năm 2025 đạt 232.937,42 m3, tăng 3.106,35 m3 (+1,35%) so cùng kỳ, nguyên nhân tăng là do nhiều diện tích rừng trồng đã đến kỳ thu hoạch. Công tác phòng chống chữa cháy là nhiệm vụ chiến lược trọng tâm hàng đầu của ngành Lâm nghiệp trong việc hướng dẫn, đôn đốc các địa phương và đơn vị chủ rừng thực hiện tốt công tác trực, sẵn sàng lực lượng, phương tiện chữa cháy, cứu nạn cứu hộ kịp thời, hiệu quả, an toàn khi có cháy rừng xảy ra; kiểm tra các địa bàn trọng điểm có nguy cơ cháy rừng cao. Thường xuyên theo dõi thông tin cảnh báo cháy rừng, tọa độ các điểm cháy qua ảnh vệ tinh trên hệ thống thông tin cảnh báo sớm, xác minh điểm cháy ngoài thực địa để có biện pháp xử lý phù hợp. c) Thủy sản Tình hình sản xuất thủy sản trong tháng trên địa bàn tỉnh diễn ra tương đối thuận lợi, hoạt động nuôi trồng thủy sản luôn được người dân quan tâm, từng bước được cải thiện về phương thức nuôi trồng, con giống, công tác phòng chống dịch bệnh tốt, nhất là kiểm soát được nguồn thức ăn, con giống… Giá tiêu thụ sản phẩm thủy sản trên thị trường ổn định và tăng nhẹ. Dự ước sản lượng thủy sản trong tháng 8/2025 đạt 7.299,73 tấn, tăng 53,83 tấn (+0,74%) so cùng kỳ; Lũy kế 8 tháng 58.010,45 tấn, tăng 2.116,21 tấn (+3,79%). Trong đó: Sản lượng cá trong tháng ước 5.973,34 tấn, tăng 7,76 tấn (+0,13%) so cùng kỳ; lũy kế 8 tháng đạt 50.782,18 tấn, tăng 1.907,38 tấn (+3,9%); Sản lượng tôm trong tháng ước đạt 1.142,4 tấn, tăng 47,56 tấn (+4,34%) so cùng kỳ; lũy kế 8 tháng đạt 5.884,49 tấn, tăng 210,4 tấn (+3,71%); Sản lượng thủy sản khác trong tháng ước đạt 183,99 tấn, giảm 1,49 tấn (-0,8%) so cùng kỳ; lũy kế 8 tháng đạt 1.343,78 tấn, giảm 1,57 tấn (-0,12%). 3. Thương mại du lịch, giá cả, xuất nhập khẩu và vận tải 3.1. Thương mại và dịch vụ Trong tháng 8, hoạt động thương mại, dịch vụ và du lịch tại tỉnh tiếp tục phát triển ổn định. Dịp Lễ Quốc khánh 2/9, sức mua trên thị trường tăng mạnh; các siêu thị, trung tâm thương mại và chợ truyền thống đã chủ động nguồn hàng dồi dào, giá cả ổn định. Nhiều chương trình khuyến mãi, giảm giá, kích cầu tiêu dùng được triển khai rộng rãi, nhất là ở các mặt hàng lương thực, thực phẩm, may mặc, đồ gia dụng và dịch vụ vui chơi, giải trí. Du lịch, lưu trú, ăn uống cũng sôi động trở lại, lượng khách tham quan, nghỉ dưỡng tăng đáng kể. Nhờ vậy, sức mua xã hội tiếp tục khởi sắc, đưa kết quả thương mại – dịch vụ 8 tháng năm 2025 tăng trưởng cao so với cùng kỳ. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 8 năm 2025 ước đạt 38.686 tỷ đồng, tăng 1,62% so tháng trước và tăng 17,8% so cùng kỳ năm trước. Lũy kế 8 tháng năm 2025 tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 299.865,4 tỷ đồng, tăng 18,16% so cùng kỳ. Phân theo ngành hoạt động như sau: Bán lẻ hàng hóa: Doanh thu bán lẻ hàng hóa tháng 8/2025 ước đạt 27.746,6 tỷ đồng, tăng 1,76% so với tháng trước, tăng 16,27% so cùng kỳ do nhu cầu tiêu dùng các mặt hàng thiết yếu đều tăng. Đặc biệt là các sản phẩm phục vụ năm học mới. Lũy kế 8 tháng ước đạt 216.003,8 tỷ đồng, tăng 16,86% so với cùng kỳ năm trước. Một số nhóm hàng 8 tháng có mức tăng doanh thu cao so với cùng kỳ, gồm: Xăng dầu tăng 29,39%; gỗ và vật liệu xây dựng tăng 20,33%. Nhóm vật phẩm văn hóa, giáo dục tăng 16,18%, hàng lương thực tăng 15,97%; hàng may mặc tăng 12,11%; đồ dùng, dụng cụ, thiết bị gia đình tăng 8,85%... Hoạt động bán lẻ trên địa bàn tỉnh diễn ra sôi động, đặc biệt gắn với dịp nghỉ Lễ Quốc khánh 2/9, nhiều siêu thị, trung tâm thương mại triển khai các chương trình khuyến mại, kích cầu tiêu dùng quy mô lớn để thu hút khách hàng. Tại Siêu thị Co.opmart Biên Hòa, chương trình “Tự hào siêu thị Việt" diễn ra từ ngày 28/8 đến 17/9 với nhiều ưu đãi các sản phẩm. Siêu thị Lotte Mart Đồng Nai tổ chức chuỗi hoạt động khuyến mại lớn dành cho hàng Việt, Bên cạnh đó, tỉnh Đồng Nai tăng cường công tác theo dõi cung - cầu, giá cả các mặt hàng thiết yếu, phối hợp với các đơn vị bình ổn để điều tiết kịp thời, đảm bảo lưu thông hàng hóa và giữ ổn định thị trường. - Lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành: Dự ước doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống tháng 8 ước đạt 4.177,8 tỷ đồng, tăng 1,34% so với tháng trước, tăng 20,1% so cùng kỳ. Lũy kế 8 tháng doanh thu lưu trú, ăn uống ước đạt 32.026,3 tỷ đồng, tăng 19,6% so cùng kỳ, trong đó: Doanh thu lưu trú tăng 33,8%; Doanh thu dịch vụ ăn uống tăng 19,34%. - Doanh thu du lịch lữ hành tháng 8 ước đạt 38,1 tỷ đồng, tăng 2,3% so với tháng trước và tăng 41,61% so tháng cùng kỳ. Lũy kế 8 tháng ước đạt 269,6 tỷ đồng, tăng 34,72% so cùng kỳ. Đồng Nai tiếp tục định hướng phát triển du lịch thành ngành kinh tế quan trọng, tập trung đầu tư hạ tầng giao thông, bến tàu gắn với khu – điểm du lịch và đa dạng hóa sản phẩm du lịch. - Hoạt động dịch vụ: Doanh thu dịch vụ tháng 8 năm 2025 ước đạt 6.723,5 tỷ đồng, tăng 1,19% so với tháng trước và tăng 22,74% so với tháng cùng kỳ. Lũy kế 8 tháng ước đạt 51.565,6 tỷ đồng, tăng 22,86% so cùng kỳ. Một số ngành kinh doanh dịch vụ tăng so với cùng kỳ như: Dịch vụ nghệ thuật, vui chơi và giải trí tăng 32,34%; Dịch vụ kinh doanh bất động sản tăng 24,84%; dịch vụ hành chính và hỗ trợ tăng 20,03%; dịch vụ y tế và hoạt động trợ giúp xã hội tăng 19,74%; dịch vụ giáo dục và đào tạo tăng 16,14%. 3.2. Giao thông vận tải Hoạt động vận tải trong tháng 8/2025 trên địa bàn tỉnh tiếp tục tăng so với tháng trước. Cơ bản đáp ứng nhu cầu đi lại của người dân, du khách, vận chuyển và lưu thông hàng hóa đảm bảo an toàn, thuận lợi thông suốt. Tỉnh hỗ trợ các doanh nghiệp kinh doanh vận tải hành khách, hàng hóa tháo gỡ khó khăn thực hiện đúng các quy định của pháp luật thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh. Doanh thu vận tải, dịch vụ kho bãi và hỗ trợ vận tải tháng 8/2025 ước đạt 4.301,5 tỷ đồng, tăng 2,19% so tháng trước và tăng 24,25% so cùng kỳ năm trước. Tính chung 8 tháng ước đạt 32.619,9 tỷ đồng, tăng 17,30% so cùng kỳ. Trong đó: vận tải hành khách ước đạt 4.986,8 tỷ đồng, tăng 18,6% so cùng kỳ; vận tải hàng hoá ước ước đạt 19.396,3 tỷ đồng, tăng 19,34% so cùng kỳ; kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 8.236,8 tỷ đồng, tăng 12,04% so cùng kỳ. Xét về khối lượng vận chuyển: - Khối lượng vận chuyển hành khách tháng 8/2025 ước đạt 8,8 triệu lượt khách, tăng 1,06% so tháng trước và tăng 19,06% so với cùng kỳ; luân chuyển hành khách ước đạt 659,7 triệu HK.km, tăng 0,83% so tháng trước và tăng 25,23% so với cùng kỳ. Lũy kế vận chuyển ước đạt 69,4 triệu HK.km, tăng 12,6%; luân chuyển ước đạt 5.184,6 triệu HK.km tăng 20,1% so với cùng kỳ. Toàn tỉnh hiện có 454 đơn vị vận tải được cấp phép (tăng 13 đơn vị, tăng 2,95% so tháng trước. Về vận tải khách cố định hiện đang khai thác: 332 tuyến cố định với 17.266 chuyến/tháng; 20 tuyến xe buýt với 261 xe, hoạt động hơn 1.090 chuyến/ngày; 11 đơn vị taxi với 1.641 xe duy trì ổn định. - Khối lượng vận chuyển hàng hóa tháng 8/2025 ước đạt 10,24 triệu tấn, tăng 1,8% so với tháng trước, lũy kế ước đạt 77,7 triệu tấn, tăng 12,62% so với cùng kỳ. Luân chuyển hàng hóa ước đạt 906 triệu tấn.km, tăng 2,03% so với tháng trước và tăng 22,81% so tháng cùng kỳ. Lũy kế luân chuyển hàng hóa ước đạt 6.797 triệu tấn.km, tăng 14,28% so với cùng kỳ. Bên cạnh sự tăng trưởng của các loại hình vận tải truyền thống, dịch vụ bưu chính chuyển phát trên địa bàn tỉnh cũng ghi nhận đà phát triển mạnh mẽ. Sự phát triển của thương mại điện tử khi nhu cầu mua sắm trực tuyến của người dân ngày càng phổ biến, cùng với việc các nền tảng bán hàng online thường xuyên triển khai nhiều chương trình ưu đãi về giá, mẫu mã phong phú, dịch vụ giao hàng nhanh và tiện lợi đã thu hút người tiêu dùng chuyển dần sang hình thức mua sắm này. Doanh thu dịch vụ bưu chính chuyển phát tháng 8 ước đạt 33,77 tỷ đồng, tăng 1,85% so với tháng trước và tăng 17,95% so với cùng kỳ năm trước. Lũy kế 8 tháng năm 2025 đạt 258,2 tỷ đồng, tăng 15,99% so với cùng kỳ. 3.3. Xuất, nhập khẩu hàng hóa Hoạt động xuất nhập khẩu của tỉnh tiếp tục duy trì đà tăng trưởng tích cực. Kim ngạch xuất khẩu tháng 8 ước đạt 3.349,6 triệu USD, tăng 5,46% so với tháng trước và tăng 17,49% so với cùng kỳ năm 2024. Tính chung 8 tháng năm 2025, kim ngạch xuất khẩu đạt 22.882 triệu USD, tăng 18,77% so với cùng kỳ. Việc mở rộng và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu được xác định là giải pháp trọng tâm, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của tỉnh. Trong 8 tháng năm 2025, hoạt động xuất khẩu Đồng Nai tiếp tục ghi nhận tăng trưởng ở nhiều mặt hàng chủ lực. Nhiều nhóm hàng đạt kim ngạch cao kèm tốc độ tăng mạnh so với cùng kỳ, nổi bật như: Cao su 811,6 triệu USD (tăng 125,57%); máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện 1.672,2 triệu USD (tăng 72,3%); hạt điều 1.711,5 triệu USD (tăng 66,27%); gỗ và sản phẩm gỗ 1.687,5 triệu USD (tăng 40,24%); cà phê 1.186,6 triệu USD (tăng 34,27%); hạt tiêu 120,8 triệu USD (tăng 16,24%); nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày 299,1 triệu USD (tăng 18,15%); máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác 2.172,9 triệu USD (tăng 9,03%); hàng dệt may 1.497,1 triệu USD (tăng 8,55%); xơ, sợi dệt các loại 828,7 triệu USD (tăng 8,09%); phương tiện vận tải và phụ tùng 870,0 triệu USD (tăng 6,7%); giày dép các loại 3.802,9 triệu USD (tăng 3,55%). Riêng một số nhóm hàng kim ngạch xuất khẩu giảm: sản phẩm từ chất dẻo 344,0 triệu USD (giảm 0,5%) và sản phẩm từ sắt thép 527,5 triệu USD (giảm 16,12%). Cơ cấu hàng xuất khẩu của Đồng Nai tiếp tục đa dạng, trong đó các nhóm nông sản chủ lực, hàng công nghiệp chế biến và sản phẩm điện tử đều tăng trưởng mạnh, qua đó góp phần duy trì đà tăng trưởng xuất khẩu chung của tỉnh Thị trường xuất khẩu 8 tháng năm 2025: Hoa Kỳ tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Đồng Nai, đạt 7.913 triệu USD, chiếm 34,58% tổng kim ngạch xuất khẩu. Các nhóm hàng chủ lực xuất sang thị trường này gồm giày dép các loại, gỗ và sản phẩm gỗ, máy vi tính và sản phẩm điện tử, cùng máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng… Trung Quốc: Kim ngạch xuất khẩu đạt 2.745 triệu USD, chiếm 12% tổng kim ngạch, với các mặt hàng gồm cao su, hạt điều, giày dép các loại, xơ sợi dệt… Nhật Bản: Kim ngạch đạt 1.854 triệu USD, chiếm 8,1%, là thị trường ổn định với các mặt hàng như gỗ và sản phẩm gỗ, giày dép, máy móc, máy vi tính và sản phẩm điện tử. Hàn Quốc: Kim ngạch đạt 956,5 triệu USD, chiếm 4,1 chủ yếu là sản phẩm gỗ, Máy móc, thiết bị, xơ, sợi dệt, giày dép, phương tiện vận tải,... Kim ngạch nhập khẩu tháng 8 năm 2025 ước đạt 2.291,4 triệu USD, tăng 3,65% so tháng trước và tăng 12,16% so cùng kỳ năm trước. Lũy kế 8 tháng kim ngạch nhập khẩu ước đạt 16.331,4 triệu USD, tăng 17,28% so cùng kỳ. Một số nhóm hàng nhập khẩu chủ yếu có mức tăng cao gồm: Hạt điều đạt 2.034,7 triệu USD, tăng 68,29%; sản phẩm điện tử và linh kiện đạt 1.600 triệu USD, tăng 58,9%, phản ánh nhu cầu nguyên liệu đầu vào cho ngành công nghiệp chế biến chế tạo; cao su đạt 302 triệu USD, tăng 51,38%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 265 triệu USD, tăng 38,35%; máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác đạt 1.909,8 triệu USD, tăng 24,33%. Một số nhóm hàng khác duy trì mức tăng ổn định như: hóa chất (+6,25%), chất dẻo nguyên liệu (+5,33%), xơ, sợi dệt (+15,73%), vải các loại (+8,39%), nguyên phụ liệu dệt may, da giày (+16,46%), sắt thép các loại (+3,64%). Nhìn chung, nhập khẩu trong 8 tháng năm 2025 tăng mạnh ở các nhóm hàng phục vụ sản xuất công nghiệp và chế biến xuất khẩu, góp phần đảm bảo nguồn cung nguyên liệu cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong tỉnh. Về thị trường nhập khẩu hàng hóa, Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất với kim ngạch 8 tháng ước 5.810 triệu USD, chiếm 35,58% tổng kim ngạch nhập khẩu; Hàn Quốc ước 1.618 triệu USD, chiếm 9,91%; Đài loan 988 triệu USD, chiếm 6,05%; Hoa kỳ 950 triệu USD, chiếm 5,81%; Nhật Bản ước đạt 820 triệu USD, chiếm 5,02%... 3.4. Giá cả thị trường Trong tháng 8/2025, giá nhiên liệu được điều chỉnh giảm theo xu hướng giá thế giới, cùng với tâm lý lo ngại dịch tả heo châu Phi khiến giá heo hơi giảm 1,78% so với tháng trước. Trong khi giá hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng thiết yếu tăng theo giá nguyên liệu đầu vào và chi phí vận chuyển do chuẩn bị vào năm học mới là những nguyên nhân chủ yếu làm cho chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 8 giảm 0,06% so với tháng trước, tăng 3,09% so với cùng kỳ năm trước. CPI bình quân 8 tháng năm 2025 tăng 3,46% so với bình quân cùng kỳ năm trước. Diễn biến chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 8/2025 như sau: So với tháng trước, CPI giảm 0,06% (khu vực thành thị giảm 0,18%, khu vực nông thôn tăng 0,03%). Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng chính có 07 nhóm hàng hoá có chỉ số giá tăng; có 04 nhóm hàng hoá có chỉ số giá giảm. Cụ thể: Nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,30% so với tháng trước là nhóm có mức tăng cao nhất trong tháng. Giá vàng thế giới biến động tăng làm cho giá vàng trong nước bình quân tăng nên giá các mặt hàng vàng trang sức tăng 0,96%; dịch vụ phục vụ cá nhân tăng 0,36%; các dịch vụ hiếu hỉ tăng 0,53%... Nhóm hàng đồ uống và thuốc lá tăng 0,18% so với tháng trước. Mức tiêu thụ cao cùng với do ảnh hưởng của giá nguyên liệu tăng nên các doanh nghiệp tăng giá bán, cụ thể: Nước khoáng tăng 0,52%; Nước quả ép tăng 0,59%; Rượu các loại tăng 0,51%... Nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,21% do nhu cầu mua sắm quần áo đồng phục, giày dép của học sinh vào năm học mới tăng cao, trong đó: Quần áo may sẵn tăng 0,26%; Hàng may mặc khác và mũ nón tăng 0,16%; Dịch vụ may mặc mũ nón và giày dép tăng 0,11%... Các nhóm hàng còn lại có chỉ số giá với mức tăng nhẹ so với tháng trước như: Nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,02%; Thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,02%; Bưu chính viễn thông tăng 0,01%; Nhóm giáo dục tăng 0,02%. Ở chiều ngược lại, chỉ số giá nhóm giao thông giảm 0,50% so với tháng trước, giảm mức tăng chung của CPI là (-0,05%). Trong đó: chỉ số giá nhóm nhiên liệu giảm 0,76% so với tháng trước cụ thể xăng giảm 0,6%; dầu Diezel giảm 2,02% do ảnh hưởng của giá thế giới; Phương tiện đi lại giảm 0,4% do nhiều cửa hàng, công ty kinh doanh có chương trình khuyến mãi giảm vào năm học mới. Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,07% (Trong đó: lương thực giảm 0,01%; Thực phẩm giảm 0,18%; Ăn uống ngoài gia đình tăng 0,15%). Giá thịt gia súc giảm 1,3% so với tháng trước, trong đó thịt heo giảm 1,87%, giá heo hơi đã giảm so với tháng trước do ảnh hưởng dịch bệnh tả heo Châu phi tuy nhiên vẫn đang ở mức dao động trong khoảng 65.000 đồng/kg đến 75.000 đồng/kg; Ở chiều ngược lại, Các mặt hàng thịt gà, thủy sản, trứng các loại tăng giá do nhu cầu tiêu thụ tăng (thịt gà tăng 0,21%; Trứng các loại tăng 1,17%; Thủy sản tươi sống tăng 0,47%); Mặt hàng sữa, bơ, pho mai tăng bình quân 0,09%; Chè, cà phê, ca cao tăng 0,20%…. do ảnh hưởng của giá nguyên liệu sản xuất đầu vào và chi phí vận chuyển. Nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,07%. Các cửa hàng điện máy tiếp tục có các chương trình khuyến mãi giảm giá, nhu cầu các mặt hàng hoa, cây cảnh, vật cảnh giảm 2,42% do thời tiết mưa nhiều... Nhóm nhà ở điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 0,06% so với tháng trước. Giá điện sinh hoạt ổn định so với tháng trước, trong khi đó giá nước giảm 0,44%, giá gas giảm 4,14%, giá dầu hoả đang ở mức 18.320 đồng/lít giảm 0,7% so với tháng trước, không chỉ giúp giảm áp lực tài chính cho các hộ gia đình, còn tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc cân đối chi phí sản xuất và vận hành. So với cùng tháng năm trước, CPI tháng 8/2025 tăng 3,09%. Trong 11 nhóm hàng tiêu dùng chính có 09 nhóm tăng giá và 02 nhóm giảm, trong đó: Tăng cao nhất là nhóm Thuốc và dịch vụ y tế (+13,44%) nguyên nhân là do Thông Thông tư số 21/2024/TT-BYT của Bộ Y tế; Tăng thấp nhất là nhóm may mặc, mũ nón và giày dép (+1,31%). Ở chiều ngược lại, nhóm giao thông giảm sâu 5,49% do điều chỉnh giá xăng dầu trong nước. Chỉ số giá bình quân 8 tháng năm 2025 tăng 3,52% so bình quân cùng kỳ. Trong 09 nhóm hàng hoá tăng giá, tăng cao nhất nhóm Thuốc và dịch vụ y tế (+13,17%); Đồ dùng và dịch vụ khác (+9,71%); Giáo dục (+5,97%); Văn hoá giải trí và du lịch (+5,07%); Hàng ăn và dịch vụ ăn uống (+4,36%); Nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng (+3,31%); Đồ uống và thuốc lá (+2,25%); Thiết bị và đồ dùng gia đình (+1,62%); May mặc, mũ nón và giày dép (+0,99%). Có 02 nhóm chỉ số giá giảm là Giao thông (-4,40%); Bưu chính viễn thông (-0,72%). Chỉ số giá vàng: Giá vàng trong nước biến động theo giá vàng thế giới. Trong nước, chỉ số giá vàng 8/2025 tăng 0,45% so với tháng trước, tăng 45,70% so với cùng kỳ năm trước; Chỉ số giá vàng bình quân 8 tháng tăng 42,35% so với bình quân cùng kỳ. Chỉ số giá đô la Mỹ: Chỉ số giá đô la Mỹ tiếp tục duy trì ở mức cao do chính sách tiền tệ thắt chặt của Fed nhằm kiểm soát lạm phát. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 8/2025 tăng 0,28% so với tháng trước, tăng 4,34% so với cùng kỳ năm trước; Chỉ số giá đô la Mỹ bình quân tăng 3,17% so với bình quân cùng kỳ. 4. Vốn đầu tư ngân sách nhà nước Trong bối cảnh tỉnh Đồng Nai đang nỗ lực phấn đấu đạt mục tiêu tăng trưởng hai con số theo Nghị quyết của Tỉnh ủy, đầu tư cơ sở hạ tầng được xác định là yếu tố then chốt cho phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó, việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư công sẽ là động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trên địa bàn tỉnh. Đây chính là lợi thế để Đồng Nai kỳ vọng vào những bước tiến đột phá, hướng tới phát triển mạnh mẽ, ổn định và bền vững trong tương lai. Tuy nhiên, tình hình phân bổ và giải ngân vốn đầu tư công trong 8 tháng đầu năm 2025 vẫn còn thấp, mới đạt dưới 40% kế hoạch năm. Do đó, việc đẩy mạnh phân bổ, giải ngân và triển khai các dự án đầu tư công được coi là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách nhằm bảo đảm tiến độ thực hiện và phát huy hiệu quả nguồn vốn Tình hình vốn đầu tư bằng nguồn ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Đồng Nai 8 tháng năm 2025 tiếp tục duy trì mức tăng trưởng cao so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể, dự ước vốn đầu tư thực hiện trong tháng 8 đạt 3.297,21 tỷ đồng, tăng 14,64% so với tháng trước. Lũy kế 8 tháng vốn đầu tư thực hiện ước đạt 14.110,68 tỷ đồng, tăng 53,32% so với cùng kỳ và đạt 39,12% kế hoạch năm. Trong đó: - Vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh quản lý ước thực hiện tháng 8 là 3.294,97 tỷ đồng, tăng 14,65% so tháng trước. Lũy kế ước 8 tháng đạt 14.094,09 tỷ đồng, tăng 53,40% so cùng kỳ và bằng 39,10% so với kế hoạch năm. Trong đó: Nguồn vốn cân đối NSNN ước 8 tháng đạt 6.780,25 tỷ đồng, giảm 0,99% so cùng kỳ và bằng 42,80% so với kế hoạch năm. Nguồn vốn xổ số kiến thiết: dự ước tháng 8 năm 2025 thực hiện 261,46 tỷ đồng, tăng 8,74% so với tháng trước; Ước 8 tháng năm 2025 thực hiện 1.429,63 tỷ đồng, tăng 7,51% so cùng kỳ và bằng 40,47% so với kế hoạch năm. Nguồn vốn đầu tư công tại tỉnh Đồng Nai tiếp tục được ưu tiên dành cho phát triển hạ tầng giao thông. Các dự án trọng điểm, mang tính liên kết vùng đang đồng loạt được triển khai nhằm hoàn thiện hệ thống giao thông đồng bộ, góp phần tạo diện mạo mới cho hạ tầng giao thông trong và ngoài tỉnh, đây được xem là yếu tố giúp tỉnh phát triển nhanh, bền vững và toàn diện. Tình hình thực hiện công trình có vốn đầu tư lớn và công trình trọng điểm năm 2025: - Trong 7 tháng đầu năm 2025 tỉnh Đồng Nai đã khởi công và đang xây dựng 11 dự án tương ứng 3.748 căn (bao gồm: 07 dự án tương ứng 2.873 căn tại tỉnh Đồng Nai (cũ); 04 dự án tương ứng 875 căn tại tỉnh Bình Phước (cũ). Trong 5 tháng còn lại của năm 2025 và dự kiến quý I năm 2026, trên địa bàn tỉnh Đồng Nai sẽ tiếp tục khởi công xây dựng thêm 22 dự án tương ứng khoảng 23.000 căn. - Tình hình triển khai thực hiện lựa chọn chủ đầu tư 10 dự án nhà ở xã hội: + Sở Xây dựng đã công bố thông tin 10 dự án nhà ở xã hội trên Cổng Thông tin điện tử UBND tỉnh và Trang Thông tin điện tử Sở Xây dựng để các nhà đầu tư đăng ký thực hiện; Đến nay, có 09/10 dự án có nhà đầu tư nộp hồ sơ đề xuất giao chủ đầu tư. Có tổng cộng 22 nhà đầu tư đăng ký với 43 hồ sơ trên tổng số 09 dự án. Riêng dự án NOXH (10,09ha) tại xã Phước Bình, huyện Long Thành cũ, nay là xã Phước Thái không có nhà đầu tư đăng ký nộp hồ sơ; Sở Xây dựng đang tổ chức thẩm định sẽ trình UBND tỉnh ban hành Quyết định giao chủ đầu tư của 09 dự án. + Sở Xây dựng đã thành lập Tổ công tác thẩm định giao Chủ đầu tư 10 dự án. + Tham mưu UBND tỉnh phê duyệt đường Gantt 10 dự án nhà ở xã hội theo đó 10 dự án đều khởi công cuối tháng 10/2025. - Trong tháng 8 năm 2025, Tỉnh Đồng Nai đã tổ chức Lễ khởi công Khu nhà chung cư nhà ở xã hội - Block CC4. Những dự án này đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao chất lượng hạ tầng và kết nối vùng, góp phần tích cực trong việc thực hiện các chỉ tiêu phát triển bền vững của tỉnh. - Nguồn vốn ngân sách nhà nước do cấp Xã quản lý Dự ước tháng 8 năm 2025 thực hiện 2,34 tỷ đồng, tăng 4,53% so với tháng 7/2025; Ước 8 tháng năm 2025 thực hiện 16,59 tỷ đồng, tăng 9,14% so cùng kỳ và bằng 52,99% so với kế hoạch năm. Trong đó: Vốn cân đối ngân sách xã dự ước tháng 8 năm 2025 thực hiện 2,34 tỷ đồng, tăng 9,14% so với tháng 7/2025; Ước 8 tháng năm 2025 thực hiện 16,59 tỷ đồng, tăng 9,14% so cùng kỳ và bằng 52,99% so với kế hoạch năm. Bắt đầu từ ngày 01/7/2025 thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp, bãi bỏ cấp huyện, sắp xếp tinh gọn lại bộ máy vận hành cấp tỉnh và cấp xã. Hầu như toàn bộ vốn đầu tư công phân cấp cho cấp huyện trước đây chuyển giao 100% về cấp tỉnh quản lý, theo dõi. Vốn phân cấp cho cấp xã từ đầu năm kế hoạch cũng tương tự cấp huyện, chuyển giao gần như toàn bộ về cấp tỉnh. Sau thời điểm 01/7/2025 vốn phân cấp cho khu vực cấp xã chỉ còn lại 31,3 tỷ đồng của tỉnh Đồng Nai cũ, chiếm tỷ lệ 0,18% vốn kế hoạch của Đồng Nai cũ, và chiếm 0,09% cho tỉnh Đồng Nai mới. (Bình Phước không còn vốn cấp xã). Ước tính 8 tháng thực hiện 16,5 tỷ đồng, đạt 52,99% KH năm 2025. Nhìn chung, tình hình thực hiện vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý trong 8 tháng đầu năm vẫn ở mức thấp. Nguyên nhân chủ yếu là do hầu hết các dự án mới chưa được khởi công, chủ yếu triển khai các công trình chuyển tiếp. Bên cạnh đó, nhiều dự án, công trình còn gặp khó khăn trong công tác giải phóng mặt bằng, tiến độ lập thủ tục đầu tư chậm, năng lực thi công của một số nhà thầu còn hạn chế. Để khắc phục tình trạng trên và thực hiện mục tiêu tăng trưởng GRDP trên 10% trong năm 2025, ngay từ đầu năm UBND tỉnh đã chỉ đạo các chủ đầu tư, sở, ban, ngành xác định việc triển khai dự án trọng điểm và giải ngân vốn đầu tư công là nhiệm vụ chính trị quan trọng, ưu tiên hàng đầu. Đồng thời, UBND tỉnh yêu cầu xây dựng kế hoạch kiểm tra, giám sát thường xuyên để kịp thời theo dõi, đôn đốc, đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án, công trình, bảo đảm đạt tỷ lệ giải ngân ở mức cao nhất theo cam kết. 5. Thu hút đầu tư và đăng ký doanh nghiệp Thu hút đầu tư nước ngoài: Trên địa bàn tỉnh tỉnh đến ngày 20/8/2025, thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) đạt 2.023,48 triệu USD, trong đó: cấp mới 121 dự án với tổng vốn đăng ký 922,92 triệu USD và 121 dự án tăng vốn với tổng vốn bổ sung 1.100,56 triệu USD. Thu hút đầu tư trong nước: Tính đến ngày 20/8/2025, thu hút vốn đầu tư đạt 86.745,54 tỷ đồng. Trong đó: có 70 dự án cấp mới với tổng vốn đăng ký khoảng 79.168,15 tỷ đồng, có 28 dự án tăng vốn với số vốn đăng ký bổ sung là 8.352,64 tỷ đồng, có 05 dự án giảm vốn với số vốn đăng ký giảm khoảng 775,26 tỷ đồng. Về phát triển doanh nghiệp: Tổng vốn đăng ký kinh doanh từ đầu năm đến ngày 15/8/2025 là 96.565 tỷ đồng. Trong đó: Có 4.971 doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký 39.325 tỷ đồng; 989 lượt doanh nghiệp đăng ký bổ sung vốn là 57.240 tỷ đồng. Ngoài ra có 1.812 Chi nhánh, địa điểm kinh doanh và văn phòng đại diện đăng ký hoạt động trên địa bàn tỉnh. Về tình hình giải thể doanh nghiệp, tạm ngừng kinh doanh: Từ đầu năm đến ngày 15/8/2025, có 706 doanh nghiệp giải thể và 666 Chi nhánh, địa điểm kinh doanh và văn phòng đại diện chấm dứt hoạt động; 2.483 doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh. Lý do giải thể và chấm dứt hoạt động và tạm ngừng kinh doanh chủ yếu là do kinh doanh không hiệu quả. Các doanh nghiệp này chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa, thuộc khu vực kinh tế tư nhân. 6. Tài chính – Ngân hàng a) Tài chính Tổng thu ngân sách Nhà nước (đã loại trừ hoàn thuế) tính đến ngày 25/8/2025 ước đạt 43.827,77 tỷ đồng, tăng 20,67% so cùng kỳ. Trong đó: - Thu nội địa ước đạt 41.703,04 tỷ đồng, tăng 30,17% so cùng kỳ. Một số khoản thu chủ yếu như sau: Thu từ doanh nghiệp Nhà nước đạt 4.037,33 tỷ đồng; Thu từ khu vực kinh tế ngoài Nhà nước đạt 6.534,32 tỷ đồng; Thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 12.402 tỷ đồng; Thuế thu nhập cá nhân 6.578,84 tỷ đồng; Các khoản thu về nhà, đất 5.357 tỷ đồng, Thu từ hoạt động xổ số kiến thiết đạt 2.859,05 tỷ đồng. - Thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu ước đạt 2.028,83 tỷ đồng. Tổng chi ngân sách Nhà nước tính đến ngày 25/8/2025 đạt 43.375,59 tỷ đồng, tăng 28,5% so cùng kỳ. Trong đó: Chi đầu tư phát triển đạt 19.824,92 tỷ đồng, tăng 12,59% (chủ yếu chi đầu tư cho các dự án theo các lĩnh vực 19.314,11 tỷ đồng); Chi thường xuyên đạt 23.531,5 tỷ đồng, tăng 46,75% so cùng kỳ (chủ yếu: Chi an ninh và trật tự, an toàn xã hội 2.267,95 tỷ đồng; Chi giáo dục, đào tạo và dạy nghề 8.011,09 tỷ đồng; Chi hoạt động của các cơ quan quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể 6.032,19 tỷ đồng; Chi đảm bảo xã hội 1.492,91 tỷ đồng). b) Ngân hàng Hoạt động huy động vốn: Tổng nguồn vốn huy động của các TCTD trên địa bàn ước đến 31/8/2025 đạt 451.000 tỷ đồng, tăng 8,04% so với đầu năm. Trong đó: Huy động từ phát hành các giấy tờ có giá ước đạt 2.500 tỷ đồng, giảm 32,89%; Tiền gửi ước đạt 448.500 tỷ đồng, tăng 8,4% so với đầu năm. - Phân theo loại tiền tệ: Huy động bằng Đồng Việt Nam ước đạt 423.000 tỷ đồng, tăng 8,40%; Huy động bằng ngoại tệ ước đạt 25.500 tỷ đồng, tăng 8,39% so với đầu năm. - Phân theo cơ cấu tiền gửi: Tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kỳ hạn ước đạt 234.900 tỷ đồng, giảm 19,42%; Tiền gửi dân cư ước đạt 213.600 tỷ đồng, tăng 74,78% so với đầu năm. Hoạt động tín dụng: Tổng dư nợ tính đến ngày 31/8/2025 ước đạt 579.000 tỷ đồng, tăng 9,48% so với đầu năm. - Phân theo kỳ hạn: Dư nợ cho vay ngắn hạn ước đạt 366.700 tỷ đồng, tăng 6,1%; Dư nợ cho vay trung, dài hạn ước đạt 212.300 tỷ đồng, tăng 15,86% so với đầu năm. - Phân theo loại tiền: Dư nợ cho vay bằng VND ước đạt 521.500 tỷ đồng, tăng 9,33%. Dư nợ cho vay bằng ngoại tệ (quy đổi VND) ước đạt 57.500 tỷ đồng, tăng 10,91% so với đầu năm. Lãi suất tiền gửi bằng VND bình quân phổ biến ở mức 0,1-0,3%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng; mức 3,85- 4,4%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng; mức 4,9-5,3%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng đến 12 tháng; mức 5,4-5,6%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ trên 12 tháng đến 24 tháng. Hiện lãi suất tiền gửi USD của TCTD ở mức 0%/năm đối với tiền gửi của cá nhân và tổ chức. Lãi suất cho vay ngắn hạn trên địa bàn phổ biến ở mức 5,1-8,4%/năm; lãi suất cho vay trung, dài hạn trên địa bàn phổ biến ở mức 7-11,7%/năm. Hiện lãi suất cho vay USD ngắn hạn phổ biến ở mức 4,0-5,1%/năm. Trong tháng 8 năm 2025, mặt bằng lãi suất về cơ bản được tiếp tục duy trì ổn định, lãi suất huy động bình quân tăng khoảng 0,1- 0,2% so với tháng trước; lãi suất cho vay bình quân tăng khoảng 0,2% so với tháng trước. Lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên được thực hiện đúng theo quy định. II. VĂN HÓA – XÃ HỘI 1. Văn hóa - xã hội Trong tháng 8, lĩnh vực văn hóa – xã hội trên địa bàn cơ bản được triển khai đồng bộ, tạo khí thế sôi nổi trong cộng đồng. Các hoạt động tuyên truyền phục vụ nhiệm vụ chính trị, kỷ niệm các ngày lễ lớn được thực hiện kịp thời, tạo khí thế sôi nổi trong cộng đồng. Thực hiện bộ maket tuyên truyền gửi cơ sở; treo cờ Đảng, cờ Tổ quốc, cờ nội dung, cờ phướn, băng rôn; thay đổi nội dung pano cố định, thay đổi nội dung pano cụm (2m x 3m); xe chạy phát loa, thu âm tài liệu và gửi link về cơ sở tuyên truyền, cụ thể trang trí tuyên truyền. Biểu diễn các chương trình nghệ thuật phục vụ: Đại hội Đại biểu Đảng bộ Quân sự tỉnh nhiệm kỳ 2025-2030; Lễ Kỷ niệm 80 năm ngày truyền thống Công an nhân dân (19/8/1945-19/8/2025) và 20 năm Ngày hội toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc (19/8/2005-19/8/2025); Đại hội Đảng bộ UBND tỉnh nhiệm kỳ 2025-2030; Chào mừng 80 năm Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (02/9/1945-02/9/2025) và 80 năm Ngày truyền thống Bộ đội Thông tin liên lạc (09/9/1945-09/9/2025). Công tác quản lý và tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao được duy trì, góp phần nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân. Hoạt động thể thao trong tháng tập trung tổ chức và tham gia các giải: Các đội tuyển tỉnh tham gia 20 giải trong nước và quốc tế, đạt 186 huy chương (49 HCV, 53 HCB, 84 HCĐ). 2. Y tế Tình hình các loại dịch bệnh cơ bản được kiểm soát, đã chủ động triển khai thực hiện các biện pháp, không để dịch bùng phát xảy ra. - Sốt xuất huyết: ghi nhận 2.529 ca, tăng 23,67% so với tháng trước; cộng dồn 8.112 ca, tăng 2,45 lần so với tháng cùng kỳ 2024. Số ổ dịch được phát hiện trong tháng là 552 ổ dịch, đã xử lý; Cộng dồn 1.851 ổ dịch và 1.846 ổ dịch được xử lý (đạt 99,73%). - Sởi: ghi nhận 36 ca, giảm 57,14% so với tháng trước, không có ca tử vong. Cộng dồn 6.807 ca, tăng 6.778 ca so với cùng kỳ 2024, tử vong 03 ca, tăng 03 ca so với cùng kỳ năm 2024. - Tay chân miệng: ghi nhận 860 ca, giảm 15,6% so với tháng; Cộng dồn 4.633 ca, tăng 15,51% so với cùng kỳ năm 2024. - Ngoài ra, trong tháng trên địa bàn tỉnh ghi nhận các bệnh: Ho gà 02 ca, giảm 10 ca so với tháng trước; Cộng dồn 51 ca, tăng 27 ca so với cùng kỳ 2024, tử vong 01 ca. Covid-19 ghi nhận 02 ca, giảm 52 ca so với tháng trước; Cộng dồn 121 ca, tăng 58 ca so với cùng kỳ… Các bệnh truyền nhiễm khác chưa ghi nhận lây lan, bùng phát thành dịch. Công tác đảm bảo an toàn thực phẩm: Trong tháng, Sở Y tế tạm ngưng hoạt động kiểm tra theo kế hoạch, thực hiện theo Thông báo số 201/TB-UBND, yêu cầu các đơn vị không thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp đến hết tháng 9/2025, trừ trường hợp có dấu hiệu vi phạm. Tại tuyến xã, phường, lực lượng chức năng đã thực hiện kiểm tra 261 cơ sở. Qua kiểm tra: Số cơ sở đạt yêu cầu là 231 cơ sở (chiếm 88,51%); Số cơ sở vi phạm là 30 cơ sở (chiếm 11,49%), đã được nhắc nhở và yêu cầu khắc phục. Trong tháng, không ghi nhận trường hợp ngộ độc thực phẩm nào xảy ra trên địa bàn. Tính từ đầu năm 2025 đến nay, toàn tỉnh chưa ghi nhận vụ ngộ độc thực phẩm nào. 3. Giáo dục Trong tháng 8/2025, ngành Giáo dục Đồng Nai tập trung chuẩn bị và tổ chức các hoạt động chào đón năm học mới 2025-2026. Các đơn vị đã hoàn tất công tác phúc khảo, xét tốt nghiệp THPT, đồng thời triển khai kế hoạch chuyên môn, cơ sở vật chất, đội ngũ để sẵn sàng bước vào năm học mới. Song song đó, các hoạt động giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông và giáo dục nghề nghiệp được duy trì ổn định, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học trên địa bàn toàn tỉnh. Ngành Giáo dục mầm non tham dự tập huấn trực tuyến do Bộ GD&ĐT tổ chức về nâng cao chất lượng quản lý tại các cơ sở GDMN độc lập; phối hợp khám sàng lọc phát hiện sớm rối loạn phát triển ở trẻ dưới 6 tuổi theo Dự án “Hỗ trợ cải thiện chất lượng cuộc sống của người khuyết tật tại các tỉnh bị phun rải nặng chất da cam" tại xã Lộc Tấn, Lộc Quang; đồng thời tổ chức tổng kết và làm việc với Ban điều phối tỉnh sau đợt triển khai phương án sàng lọc tại các xã, phường. Tổ chức chấm phúc khảo kỳ thi Tốt nghiệp THPT năm 2025; rà soát dữ liệu tốt nghiệp, chuẩn bị các báo cáo Bộ GDĐT, UBND tỉnh, ban ngành liên quan; họp xét tốt nghiêp THPT năm 2025. Chuẩn bị lên kế họach cho năm học 2025-2026; thẩm định hồ sơ đăng ký đánh giá ngoài các bậc học; tổ chức đánh giá ngoài các đơn vị bậc học mầm non, tiểu học, THCS, THPT; thẩm tra, cấp phát văn bằng, chứng chỉ theo một cửa liên thông. 4. Giải quyết việc làm và đào tạo nghề Trong tháng 8/2025, Sở Nội vụ phối hợp các sở, ban, ngành và các doanh nghiệp dịch vụ việc làm đã giải quyết việc làm cho 7.881 lượt người. Lũy kế từ đầu năm đến nay giải quyết việc làm cho 86.464 lượt người, đạt 69,17% kế hoạch năm). Các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn tỉnh trong tháng tuyển mới đào tạo cho 3.492 học viên. Lũy kế 8 tháng tuyển mới 30.173, đạt 46,42% kế hoạch năm, tăng 32% so với năm 2024. Tốt nghiệp trong kỳ: Trong tháng các trường và Cơ sở giáo dục nghề nghiệp đã tốt nghiệp và có chứng chỉ 840 học viên. Lũy kế 8 tháng có 23.745 học viên tốt nghiệp, đạt 39,58% so với kế hoạch năm, tăng 31% so với cùng kỳ. |
Tác giả: Nguồn “thongke.dongnai.gov.vn”
Những tin cũ hơn
Hôm nay
Tổng lượt truy cập