(CTT-Đồng Nai) “Cục Thống kê Đồng Nai thông báo tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Đồng Nai tháng 7 năm 2024 như sau:
1. Sản xuất công nghiệp
Tháng 7, sản xuất công nghiệp tiếp tục tăng trưởng và trong xu hướng phục hồi, các doanh nghiệp có thêm đơn hàng sản xuất mới, thị trường xuất khẩu thuận lợi, thị trường tiêu thụ sản phẩm trong nước khá ổn định. Dự ước chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 7/2024 tăng 1,53% so tháng trước, trong đó: Khai khoáng giảm 0,43%; Công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 2,02%; Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước giảm 7,11%; Cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước tăng 1,20%; Tháng 7 có 22/27 ngành sản xuất tăng so tháng trước, một số ngành tăng khá như: Sản xuất chế biến thực phẩm tăng 2,14%; Sản xuất đồ uống tăng 1,47%; Dệt tăng 2,72%; Sản xuất trang phục tăng 2,12%; Sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 2,45%; Sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 2,3%; Sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 2,89%; Sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 3,35%; Sản xuất máy móc, thiết bị chưa được phân vào đâu tăng 3,17%; sản xuất phương tiện vận tải khác tăng 2,99% …
- Dự ước chỉ số sản xuất công nghiệp 7 tháng đầu năm 2024 tăng 6,98% so cùng kỳ; mức tăng 7 tháng năm nay cao hơn nhiều so với 7 tháng năm 2023 nhưng vẫn thấp hơn so với 7,33% của 7 tháng năm 2022, trong đó ngành khai khoáng tăng 4,43%; Công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 7,58%; Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước giảm 4,89%; Cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước tăng 9,24%. 7 tháng đầu năm 2024 các ngành sản xuất công nghiệp hầu hết tăng so cùng kỳ do năm nay đơn hàng của các doanh nghiệp tăng thuộc các ngành chế biến chế tạo tăng khá và có nhiều hợp đồng mới như: Chế biến thực phẩm, đồ uống; Dệt; Sản xuất trang phục; Sản xuất da và các sản phẩm liên quan; Sản xuất giấy và các sản phẩm từ giấy; Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn; Sản xuất thiết bị điện; Sản xuất máy móc thiết bị v.v…
Một số ngành công nghiệp chủ lực có chỉ số sản xuất 7 tháng đầu năm đạt mức tăng khá so cùng kỳ như: Sản xuất đồ uống tăng 4,53%, Sản xuất chế biến thực phẩm 5,68%; Dệt tăng 5,79%; May mặc tăng 7,34%; Sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 6,71%; Sản xuất hóa chất tăng 5,52%; Sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 12,96; Sản xuất giường,tủ, bàn, ghế tăng 7,2% v.v… một số ngành sản xuất khác như: Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 10,50%; Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 9,85%; Sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 11,08%; Sản xuất thiết bị điện tăng 10,19%, Sản xuất máy móc thiết bị chưa phân vào đâu tăng 9,26%; Sản xuất phương tiện vận tải khác tăng 10,15% v.v… Dự ước 7 tháng đầu năm 2024 có 26/27 ngành sản xuất chỉ số tăng so cùng kỳ; có 01 ngành chỉ số sản xuất giảm so cùng kỳ đó là: Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí (-4,89%)… do Công ty Điện lực Dầu khí Nhơn trạch 2 sản lượng một số tháng vẫn giảm theo kế hoạch điều tiết của Tập Đoàn Điện lực Việt Nam, tuy nhiên lũy lế 7 tháng đã đạt 95,11% (trong khi 6 tháng chỉ đạt 93,86%) xu hướng các tháng cuối năm tăng dần lên.
- Chỉ số sản phẩm công nghiệp: Dự ước tháng 7 năm 2024 có 19/24 sản phẩm chủ yếu tăng so với tháng cùng kỳ năm trước như: Cà phê các loại đạt 38 ngàn tấn, tăng 2,43%; Bột ngọt đạt 25,2 nghìn tấn, tăng 1,61%; Thuốc lá sợi đạt 1.422 tấn, tăng 2,52%; Sợi các loại đạt 188,4 nghìn tấn, tăng 3,29%; Quần áo may sẵn đạt 23 triệu cái, tăng 2,22%; Giầy dép các loại đạt 38,4 triệu đôi, tăng 1,86%; Thức ăn gia súc đạt 273,9 nghìn tấn, tăng 2,20%; Bao bì các loại đạt 20 nghìn tấn, tăng 1,52% ...
Lũy kế 7 tháng đầu năm 2024 có 20/24 sản phẩm công nghiệp chủ yếu có sản lượng tăng so cùng kỳ đó là: Đá xây dựng các loại 11.242,7 nghìn m3, tăng 4,42%; Bột ngọt đạt 166,2 nghìn tấn, tăng 7,02%; Thuốc lá sợi đạt 9.346 tấn, tăng 8,31%; Sợi các loại 1.256,7 ngàn tấn, tăng 5,22%; Vải các loại 343,5 triệu m2, tăng 1,66%; Quần áo may sẵn đạt 152,4 triệu cái, tăng 8,01%; Giầy dép các loại 253,8 triệu đôi, tăng 1,89%; Sản phẩm kim loại 274,5 ngàn tấn, tăng 10,55%; Giường, tủ, bàn, ghế đạt 6.438,8 nghìn chiếc, tăng 13,38%… Nguyên nhân 7 tháng đầu năm 2024 hầu hết các ngành sản xuất đều tăng là do đơn hàng sản xuất tăng, thị trường tiêu thụ thuận lợi, giá xuất khẩu tăng so cùng kỳ, thị trường trong nước đang có xu hướng tăng.
2. Sản xuất Nông - Lâm nghiệp và Thủy sản
a) Nông nghiệp
Cây hàng năm: Tình hình sản xuất cây hàng năm trên địa bàn tỉnh 7 tháng gặp một số khó khăn về thời tiết như: nắng nóng kéo dài, giá vật tư đầu vào tăng khá cao, tuy nhiên được sự khuyến cáo của các ngành chức năng nên người dân đã phần nào chủ động được các nguồn nước tránh hạn, nhưng với một số cây trồng đòi hỏi nguồn nước tưới cao mới sinh trưởng được thì người dân không tập trung gieo trồng nhằm tránh những rủi ro xảy ra. Đồng thời đầu tư hệ thống tưới nhỏ giọt cho cây trồng, áp dụng nhiều biện pháp khoa học kỹ thuật trong chăm bón và phòng chống dịch bệnh cây trồng, mặc dù diện tích gieo trồng cây hàng năm có giảm so cùng kỳ nhưng hầu hết năng suất cây trồng đều tăng. Tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm ước đến 15/7/2024 là 100.859,5 ha, giảm 75,4 ha (-0,07%) so với cùng kỳ, diện tích tăng, giảm một số cây chủ yếu như sau: Diện tích Lúa 7 tháng đạt 34.293,1 ha, tăng 0,54% (trong đó vụ Đông Xuân là 15.506,1 ha, tăng 1,53%; vụ Hè Thu là 18.787 ha, giảm 0,26% so cùng kỳ). Diện tích cây Bắp là 24.515,8 ha, tăng 1,02%, nguyên nhân diện bắp tăng là do giá bắp bán làm thức ăn chăn nuôi cao và ổn định nên người dân tập trung gieo trồng trên những thửa rộng chủ động được nguồn nước và mở rộng thêm những diện tích của các loại cây hàng năm khác cho năng suất kém, do đó diện tích bắp tăng so cùng kỳ.
Diện tích Mía đạt 3.060,4 ha, tăng 3,64% so cùng kỳ, nguyên nhân tăng chủ yếu là do chuyển đổi từ cây Sắn qua trồng Mía; Đậu tương đạt 247 ha, tăng 3,69% so cùng kỳ; Diện tích Lạc đạt 814,8 ha, giảm 0,25%; Rau các loại là 13.780,7 ha, tăng 0,12%; Diện tích đậu các loại đạt 2.531,62 ha, tăng 34,04 ha (+1,36%) so cùng kỳ, nguyên nhân các loại cây này tăng là do thị trường tiêu thụ ổn định giá bán cao, dễ chăm sóc, hơn nữa thời tiết trong vụ thuận lợi cho việc gieo trồng và phát triển.
Dự ước năng suất một số cây trồng chính tăng, giảm so cùng kỳ như sau: Năng suất lúa đạt 64,25 tạ/ha, tăng 0,22%; Bắp: 80,75 tạ/ha, tăng 0,39%; Khoai lang: 112,62 tạ/ha, tăng 0,48%; Mía: 701,22 tăng 3,36%; Đậu tương: 16,42 tạ/ha, tăng 0,55%; Lạc: 23,61 tạ/ha, tăng 1,72%; Rau các loại: 174,15 tạ/ha, tăng 1,89%; Năng suất đậu/đỗ các loại: 14,07 tạ/ha, giảm 0,57%, năng suất của một số cây trồng năm nay tăng là do ngành nông nghiệp đã phối hợp chặt chẽ với các địa phương trong công tác tuyên truyền, vận động người dân xuống giống đúng vụ, chủ động nguồn nước tưới, thực hiện tốt khâu chăm bón, phòng chống dịch bệnh nên không xảy ra thiệt hại.
Dự ước sản lượng thu hoạch 7 tháng đầu năm 2024 so với cùng kỳ như sau: Sản lượng lúa: 138.524 tấn, tăng 1,38%; Bắp: 95.466 tấn, giảm 2,19% (do chưa thu hoạch hết trên diện tích gieo trồng); Khoai lang: 1.201 tấn, tăng 16,23%; Sắn: 117.798 tấn, giảm 0,62%; Mía: 3.724 tấn, tăng 3,12%; Đậu tương: 299 tấn, tăng 1,97%; Lạc: 1.064 tấn, tăng 0,6%; Sản lượng rau các loại: 110.006 tấn, giảm 0,28%; Sản lượng đậu/đỗ các loại: 2.092 tấn, tăng 0,14% so cùng kỳ.
Cây lâu năm: Tổng diện tích cây lâu năm hiện có là 171.457 ha, tăng 1.878 ha (+1,11%) so cùng kỳ. Trong đó: tổng diện cây ăn quả là 78.288 ha, tăng 408 ha (+0,52%) so cùng kỳ và chiếm 45,66% tổng diện tích; Diện tích cây công nghiệp lâu năm là 93.169 ha, tăng 1.470 ha (+1,6%). Tổng diện tích cây lâu năm tăng là do nông dân chuyển đổi một số diện tích cây hàng năm kém hiệu quả sang trồng cây ăn quả như Xoài, Chuối, Mít, Sầu Riêng đang có xu hướng tăng mạnh do đạt hiệu quả kinh tế cao.
Sản lượng một số cây lâu năm chủ yếu thu hoạch trong 7 tháng năm 2024 so cùng kỳ như sau: Xoài đạt 68.897 tấn, tăng 2,91%; Chuối đạt 134.116 tấn, tăng 19,13%; Thanh Long đạt 6.819 tấn, tăng 1,88%; Bưởi đạt 42.805 tấn, tăng 3,49%; Chôm Chôm đạt 152.901 tấn, tăng 0,52%.... Sản lượng hầu hết các loại cây ăn quả tăng so cùng kỳ do một số vùng chủ động được nguồn nước và các hộ sản xuất thực hiện tốt khâu chăm bón, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, phòng chống dịch bệnh tốt. Sản lượng Điều đạt 43.045 tấn, tăng 9,03% do người dân đẩy mạnh cải tạo thay thế các diện tích điều già cỗi bằng các giống điều mới năng suất cao, khả năng kháng bệnh tốt; Sản lượng Tiêu đạt 27.133 tấn, giảm 2,52%, do giá tiêu mấy năm nay thấp, việc xuất khẩu gặp khó khăn nên người dân đã chuyển một số diện tích già cỗi, kém năng suất hoặc giống cũ sang trồng cây lâu năm khác; Sản lượng mủ Cao Su đạt 20.022 tấn, tăng 2,54%, do giá thu mua mủ cao su tại Đồng Nai có xu hướng tăng, việc mở cửa biên giới cũng là cơ hội tốt cho xuất khẩu cao su hồi phục, nhu cầu nhập khẩu từ Mỹ và Trung Quốc cũng đang tăng nên người dân và đặc biệt là các doanh nghiệp đã đầu tư chăm sóc để năng suất tăng cao hơn, bên cạnh đó nhiều diện tích trồng giống mới nay đến kỳ cho sản phẩm nên năng suất và sản lượng tăng cao so cùng kỳ.
Chăn nuôi: Tình hình hoạt động chăn nuôi trên địa bàn phát triển ổn định. Ngành Thú y tiếp tục triển khai cho các đơn vị kết hợp với các cơ quan chuyên môn chú trọng tới công tác tuyên truyền và phòng chống dịch bệnh cho gia súc, gia cầm nhất là công tác tiêm phòng luôn được quan tâm, giám sát chặt chẽ; hướng dẫn các địa phương phải tập trung vào công tác quản lý, kiểm tra, giám sát từ cơ sở chăn nuôi đến hoạt động vận chuyển, kinh doanh; rà soát công tác tiêm phòng, thống kê tổng đàn gia súc, gia cầm tại địa phương, các đầu mối lưu thông và thực hiện tốt công tác phòng chống dịch bệnh trên địa bàn. Tổng đàn gia súc có đến thời điểm tháng 7/2024 là 2.830.728 con, giảm 0,17% so cùng kỳ. Trong đó: Trâu đạt 3.987 con, tăng 0,15%; Bò đạt 108.348 con, tăng 0,1%; Số lượng đàn trâu, bò tăng là do sản phẩm thịt gia súc phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng xã hội cao, nên các hộ chăn nuôi trâu, bò đầu tư thêm con giống để nuôi; Đàn heo đạt 2.718,39 nghìn con (không tính heo con chưa tách mẹ), giảm 0,19% so cùng kỳ. Nguyên nhân đàn heo giảm là do việc di dời các dự án chăn nuôi ra khỏi khu vực không được phép chăn nuôi tại các địa phương, một số huyện có số lượng heo lớn như Thống Nhất, Trảng Bom, Xuân Lộc tiến hành rà soát các khu vực chăn nuôi, kiên quyết di dời hoặc nghiêm cấm các hộ, trang trại do chưa đảm bảo được về môi trường dẫn đến tổng đàn giảm. Giá heo hơi trên địa bàn Đồng Nai đến ngày 17/7/2024 dao động trong khoảng từ 63.000 đến 65.000 đồng/kg.
Tổng đàn gia cầm có đến thời điểm tháng 7/2024 là 24.628,82 nghìn con, giảm 0,42% so cùng kỳ, trong đó gà đạt 21.784,74 nghìn con, giảm 0,1%. Nguyên nhân đàn gà giảm là do một số trang trại chăn nuôi trên địa bàn không đảm bảo được vệ sinh môi trường, dẫn đến nhiều trang trại bỏ trống hoặc chờ xử lý môi trường mới tiếp tục đầu tư thả nuôi. Sản lượng thịt gia cầm 7 tháng ước đạt 121.042,7 tấn, tăng 4,93%, trong đó sản lượng thịt gà ước đạt 104.412,7 tấn, tăng 4,94% so cùng kỳ. Sản lượng thịt gà tăng do đây là sản phẩm dễ chế biến trong các bếp ăn tập thể của các công ty, doanh nghiệp, trường học, nhu cầu sinh hoạt và tiêu dùng trên thị trường xã hội tăng nên lượng thịt dùng làm nguyên liệu chế biến thực phẩm đông lạnh tăng cao so với cùng kỳ.
b) Lâm nghiệp: Dự ước diện tích rừng trồng mới trong tháng 7/2024 đạt 764,3 ha, tăng 14,18 ha (+1,89%) so với tháng cùng kỳ. Luỹ kế 7 tháng diện tích rừng trồng mới ước đạt được 2.728 ha, tăng 26,42 ha (+0,98%) so với cùng kỳ. Hiện nay đang thực hiện tốt mô hình kinh tế hợp tác liên kết theo chuỗi, các địa phương và chủ rừng thành lập hợp tác xã, tổ hợp tác trồng rừng, chế biến các sản phẩm trong lâm nghiệp, do đó nhiều chủ rừng chủ động trồng rừng thay thế, trồng bổ sung các loại cây gỗ lớn bản địa, trồng rừng sản xuất thâm canh.
Trong tháng 7/2024 sản lượng khai thác gỗ ước đạt 29.117 m3, tăng 0,28% so với tháng cùng kỳ. Lũy kế 7 tháng, tổng số gỗ khai thác đạt được 173.907 m3, tăng 2,43% so với cùng kỳ. Sản lượng củi khai thác trong tháng 7/2024 ước đạt 398 ste, tăng 3,65% so tháng cùng kỳ. Ước 7 tháng đạt 1.845 ste, giảm 4,46% so với cùng kỳ.
c) Thủy sản: Dự ước sản lượng thủy sản trong tháng 7/2024 đạt 7.977,2 tấn, tăng 2,24% so với tháng cùng kỳ. Lũy kế 7 tháng đạt 47.649,9 tấn, tăng 4,11% so cùng kỳ. Trong đó: Sản lượng khai thác đạt 4.609,2 tấn, giảm 0,23% (sản lượng cá ước đạt 3.998,7 tấn, giảm 0,2%; tôm đạt 298,3 tấn, giảm 0,83%; thủy sản khác đạt 312,2 tấn, giảm 0,12%). Sản lượng thuỷ sản nuôi trồng 7 tháng đạt 43.040,7 tấn, tăng 4,6% so cùng kỳ (sản lượng cá ước đạt 36.305,5 tấn, tăng 4,71%; tôm đạt 5.749,1 tấn, tăng 4,29%; thủy sản khác đạt 986,1 tấn, tăng 2,52% so cùng kỳ). Nguyên nhân sản lượng thủy sản tăng là do nhu cầu thị trường tiêu thụ xã hội, sản phẩm thủy sản được người tiêu dùng sử dụng nhiều, mặt khác mặt hàng thủy sản ngày càng được người tiêu dùng lựa chọn, sử dụng khá phổ biến; hơn nữa người nuôi thủy sản tập trung vào nuôi thâm canh và bán thâm canh với các đối tượng chủ lực như: nước ngọt (cá rô đồng, rô phi, diêu hồng, cá lóc, tôm càng xanh) và nước lợ (tôm thẻ và tôm sú); đồng thời kiểm soát tỷ lệ phần trăm cho ăn đúng quy trình, kỹ thuật, giúp duy trì tỷ lệ sống cao…
3. Tình hình thực hiện vốn đầu tư nguồn vốn ngân sách Nhà nước: Dự ước thực hiện vốn đầu tư phát triển bằng nguồn vốn ngân sách Nhà Nước do địa phương quản lý tháng 7 năm 2024 thực hiện 1.038 tỷ đồng, tăng 5,92% so với tháng 6 năm 2024. Ước 7 tháng đầu năm 2024 thực hiện 5.868,3 tỷ đồng; tăng 15,25% so cùng kỳ và bằng 39,06% KH năm 2024.
4. Thu hút đầu tư và đăng ký doanh nghiệp
Từ đầu năm đến ngày 20/7/2024, thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) trên địa bàn tỉnh đạt khoảng 981,98 triệu USD, tăng 39,73% so cùng kỳ, trong đó: cấp mới 54 dự án với tổng vốn đăng ký 591,34 triệu USD, tăng gấp hơn 3,9 lần so cùng kỳ và 64 dự án tăng vốn với tổng vốn bổ sung 390,65 triệu USD, giảm 29,36% so cùng kỳ.
Từ đầu năm 2024 đến ngày 20/7/2024, tổng vốn đầu tư trong nước đăng ký cấp giấy chứng nhận đầu tư, chủ trương đầu tư và điều chỉnh tăng vốn khoảng 11.671,84 tỷ đồng, gấp hơn 1,7 lần so với cùng kỳ. Trong đó: cấp mới 06 dự án và 02 dự án được cấp quyết định chấp thuận nhà đầu tư thông qua đấu thầu, với tổng vốn đăng ký là 5.554,35 tỷ đồng, giảm 6,38% so cùng kỳ; có 12 dự án tăng vốn với số vốn đăng ký bổ sung là 6.117,49 tỷ đồng, gấp hơn 7,6 lần so cùng kỳ năm 2023.
Từ đầu năm đến ngày 15/7/2024, tổng vốn đăng ký thành lập mới doanh nghiệp và bổ sung tăng vốn là 42.053 tỷ đồng, tăng 37,2% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó: Có 2.566 doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký 18.141 tỷ đồng, tăng 28,06%; Có 669 lượt doanh nghiệp đăng ký bổ sung với số vốn là 23.912 tỷ đồng, tăng 45,05% so cùng kỳ. Ngoài ra có 1.008 Chi nhánh, địa điểm kinh doanh và văn phòng đại diện đăng ký hoạt động trên địa bàn tỉnh, giảm 10% so với cùng kỳ. Nhìn chung 7 tháng đầu năm do kinh tế đang phục hồi dần, số doanh nghiệp và số vốn đăng ký thành lập mới tăng cao.
Từ ngày 01/7/2024 đến ngày 15/7/2024, có 35 doanh nghiệp giải thể, tăng 66,66% so với tháng cùng kỳ và có 34 Chi nhánh, địa điểm kinh doanh và văn phòng đại diện chấm dứt hoạt động, tăng 17,2%; 109 doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh, bằng 13,5% so với cùng kỳ. Lũy kế từ đầu năm đến ngày 15/07/2024, có 325 doanh nghiệp giải thể, tăng 6,5% so với cùng kỳ, và có 402 Chi nhánh, địa điểm kinh doanh và văn phòng đại diện chấm dứt hoạt động, tăng 3,8%; và 1.510 doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh, tăng 31,5% so với cùng kỳ. Lý do giải thể và chấm dứt hoạt động và tạm ngừng kinh doanh chủ yếu là do kinh doanh không hiệu quả. Các doanh nghiệp này chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa, thuộc khu vực kinh tế tư nhân.
5. Thương mại du lịch, giá cả, xuất nhập khẩu và vận tải
5.1 Thương mại dịch vụ
Hoạt động thương mại và dịch vụ trên địa bàn tỉnh tiếp tục tăng trưởng tích cực, thị trường tiêu thụ được mở rộng, đa dạng, sức mua trên thị trường tăng so với cùng kỳ. Nhiều chương trình xúc tiến thương mại đạt hiệu quả cao, phối hợp với cộng đồng doanh nghiệp triển khai các giải pháp trọng tâm nhằm hỗ trợ doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, phát triển thị trường trong nước và thúc đẩy xuất khẩu. Thông qua các chương trình nhằm tăng cường kết nối doanh nghiệp và kích cầu tiêu dùng trong nước, mở rộng thị trường...
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 7 năm 2024 ước đạt 24.322,4 tỷ đồng, tăng 2,27% so tháng trước và tăng 12,6% so tháng cùng kỳ năm trước. Lũy kế 7 tháng ước đạt 168.281,56 tỷ đồng, tăng 12,4% so cùng kỳ. Trong đó: Kinh tế nhà nước ước đạt 9.639,7 tỷ đồng, tăng 12,19%; kinh tế ngoài nhà nước ước đạt 154.484 tỷ đồng, chiếm 91,8%; tăng 12,36% so với cùng kỳ; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 4.157,8 tỷ đồng, tăng 15,2% so cùng kỳ. Xét theo ngành hoạt động như sau:
a) Bán lẻ hàng hóa
Doanh thu bán lẻ hàng hóa tháng 7 ước đạt 17.234,4 tỷ đồng, tăng 2,65% so với tháng trước. Lũy kế 7 tháng doanh thu bán lẻ hàng hóa ước đạt 119.996,8 tỷ đồng, tăng 11,04% so với cùng kỳ năm trước, trong đó các nhóm hàng có mức tăng khá so cùng kỳ là: Hàng lương thực tăng 5,93%, hàng may mặc tăng 11,43%, đồ dùng, dụng cụ, thiết bị gia đình tăng 5,87%; vật phẩm, văn hóa, giáo dục tăng 11,72%, gỗ và vật liệu xây dựng tăng 20,4%, xăng dầu các loại tăng 20,19%... Hoạt động bán lẻ trên địa bàn tỉnh khá sôi động, ngành Công Thương tỉnh tổ chức nhiều chương trình kết nối cung cầu trong nước, đồng thời theo dõi sát diễn biến giá cả các mặt hàng thiết yếu để có biện pháp điều tiết kịp thời, đảm bảo cân đối cung cầu, lưu thông hàng hóa và bình ổn thị trường.
b) Lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành
Dự ước doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống tháng 7 ước đạt 2.662,3 tỷ đồng, tăng 1,06% so với tháng trước và tăng 14,19% so cùng tháng năm trước. Lũy kế 7 tháng doanh thu lưu trú, ăn uống ước đạt 18.355,4 tỷ đồng, tăng 20,08% so cùng kỳ, trong đó: doanh thu lưu trú tăng 22,01%; doanh thu dịch vụ ăn uống tăng 20,06%.
Doanh thu du lịch lữ hành tháng 7 ước đạt 8,4 tỷ đồng, tăng 1,8% so với tháng trước và tăng 34,79% so cùng tháng năm trước. Lũy kế 7 tháng ước đạt 54,8 tỷ đồng, tăng 28,07% so cùng kỳ.
c) Hoạt động dịch vụ
Doanh thu dịch vụ tháng 7 năm 2024 ước đạt 4.417,2 tỷ đồng, tăng 1,52% so với tháng trước và tăng 16,35% so với tháng cùng kỳ. Lũy kế 7 tháng ước đạt 29.874,5 tỷ đồng, tăng 13,6% so cùng kỳ. Một số ngành kinh doanh dịch vụ tăng so với cùng kỳ như: Dịch vụ hành chính và hỗ trợ tăng 9,15%; dịch vụ Giáo dục và Đào tạo tăng 7,13%; dịch vụ y tế và hoạt động trợ giúp xã hội tăng 19,85%; dịch vụ nghệ thuật, vui chơi giải trí tăng 11,93%.
5.2. Giá cả thị trường
Tháng 7 năm 2024 tình hình giá cả hàng hàng hoá, dịch vụ có sự biến động đáng kể và có mức tăng tương đối so với tháng trước. Trong tháng, giá cả nhiều mặt hàng tăng; giá heo hơi ở các khu vực trong tỉnh tăng do nguồn cung giảm và nhu cầu tăng, giá các mặt hàng xăng, dầu tăng do ảnh hưởng của giá thế giới; giá gas ổn định so tháng trước... là nguyên nhân chính làm cho chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 7 năm 2024 tăng 0,72% so với tháng trước, trong đó: khu vực thành thị tăng 0,82%; khu vực nông thôn tăng 0,63%. Diễn biến một số nhóm hàng hoá chính như sau:
- So với tháng trước:
Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng chính có 8 nhóm hàng hoá có chỉ số giá tăng; có 01 nhóm hàng hoá có chỉ số giá giảm; 02 nhóm hàng hoá ổn định so với tháng trước. Trong đó:
- Hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,08% đóng góp vào mức tăng chung của CPI là (+0,03%). Trong đó: Lương thực tăng 0,11%. Nguyên nhân là do trong tháng 7 thời tiết mưa nhiều nên chi phí bảo quản, phơi sấy tăng, bên cạnh đó giá các mặt hàng xăng, dầu tăng làm cho chi phí vận chuyển tăng, làm cho giá gạo tẻ thường tăng 0,1%; các mặt hàng lương thực chế biến tăng 0,15%; giá mặt hàng bột mì và ngũ cốc khác tăng bình quân 0,79%...
Giá thực phẩm tăng 0,09% so với tháng trước. Nguyên nhân tăng do giá heo hơi trong tháng tiếp tục tăng, do nguồn cung cấp cho thị trường giảm và nhu cầu tiêu dùng tăng; các mặt hàng thịt chế biến, tăng 0,54%; các mặt hàng thuỷ sản, tăng 0,36% so với tháng trước… ở chiều ngược lại, các mặt hàng rau tươi, khô và chế biến giảm 2,6% so với tháng trước do nguồn cung trên thị trường ổn định làm cho giá các mặt hàng giảm như cà chua giảm 5,07%; bắp cải giảm 6,43%; quả đỗ tươi giảm 6,77%; khoai tây giảm 6,74%....
- Nhà ở điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 1,32% so với tháng trước góp phần làm tăng CPI trong tháng là 0,26%. Nguyên nhân chủ yếu do nhu cầu sử dụng điện tăng làm cho giá điện bình quân tăng 6,98% so với tháng trước; giá dầu hoả tăng 5,14% do ảnh hưởng của giá thế giới...
- Chỉ số giá nhóm giao thông tăng 1,89% so với tháng trước. Đây là nhóm có chỉ số giá tăng cao nhất trong tháng, đóng góp vào mức tăng chung của CPI là 0,19%, nguyên nhân chủ yếu do ảnh hưởng của giá thế giới nên giá các mặt hàng xăng, dầu trong nước điều chỉnh tăng làm cho nhóm nhiên liệu bình quân tăng 3,65% so với tháng trước, trong đó: Xăng, tăng 4,03%; dầu Diezel, tăng 5,06%; dịch vụ giao thông công cộng, tăng 4,2%; dịch vụ vận tải hành khách bằng đường sắt, tăng 4,4%...
- Các nhóm còn lại có mức tăng từ 0,01 – 0,1%. Riêng văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,05%.
So với cùng tháng năm trước, CPI tháng 7/2024 tăng 4,13% so với tháng 7/2023. Trong 11 nhóm hàng tiêu dùng chính có 10 nhóm tăng giá, trong đó tăng cao nhất là nhóm Thuốc và dịch vụ y tế tăng 9,03%; tăng thấp nhất nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 1,51%; riêng bưu chính viễn thông vẫn ổn định không có biến động so với cùng kỳ.
Chỉ số giá bình quân 7 tháng so bình quân cùng kỳ, tăng 2,94%. Trong 09 nhóm hàng hoá tăng giá, tăng cao nhất nhóm Thuốc và dịch vụ y tế (+9,06%); Đồ dùng và dịch vụ khác (+8,21%); Giao thông (+3,62%); Nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng (+3,35%); Hàng ăn và dịch vụ ăn uống (+2,9%); Giáo dục (+2,04%); Thiết bị và đồ dùng gia đình (+1,44%); Đồ uống và thuốc lá (+0,79%). Có 02 nhóm chỉ số giá giảm là bưu chính viễn thông giảm 0,18%; văn hoá giả trí và du lịch giảm 0,27%.
- Giá vàng tháng 7 tăng 2,61% so với tháng trước; so với cùng tháng năm trước tăng 35,46%; so với tháng 12/2023 tăng 23,7%. Bình quân 7 tháng tăng 27,5% so với cùng kỳ.
- Chỉ số giá Đô la Mỹ tháng 7 tăng 0,33% so tháng trước; so với cùng tháng năm trước tăng 7,81%; so với tháng 12 năm trước tăng 4,03%. Bình quân 7 tháng so cùng kỳ tăng 6,6%.
5.3. Xuất, nhập khẩu hàng hóa
Hoạt động xuất, nhập khẩu tháng 7 tiếp tục chuyển biến tích cực, do sự phục hồi của thị trường thế giới, đơn hàng xuất khẩu các doanh nghiệp tăng. Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới có tác động sâu rộng và toàn diện, giúp các doanh nghiệp khai thác thế mạnh, đẩy mạnh liên kết với các doanh nghiệp khác tại nhằm mở rộng thị trường sang các đối tác mới và củng cố thị trường xuất khẩu chủ lực và tiếp cận đa dạng các thị trường để phát triển.
Ước kim ngạch xuất khẩu tháng 7 đạt 2.037,2 triệu USD, tăng 5,68% so với tháng trước và tăng 8,33% so tháng cùng kỳ. So với tháng trước hầu hết các nhóm hàng xuất khẩu đều tăng như: Hạt điều nhân (+3,45%); cà phê (+6,6%); cao su (+7,23%); Sản phẩm gỗ (+2,52%); Hàng dệt may (+6,85%); Giày dép các loại (+7,61%); Máy vi tính (+4,74%); Xơ, sợi (+5,73%); máy móc thiết bị và dụng cụ phụ tùng (+5,92%) …
Tính chung 7 tháng kim ngạch xuất khẩu ước đạt 13.275,6 triệu USD, tăng 8,05% so cùng kỳ. Trong đó: kinh tế nhà nước tăng 2,97%; kinh tế ngoài nhà nước tăng 6,23%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng 8,81%. Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu 7 tháng tăng khá so cùng kỳ như: Hạt điều nhân (+44,84%); cà phê (+41,63%); Sản phẩm gỗ (+12,6%); Hàng dệt may (+3,02%); Giày dép các loại (+2,2%); Máy vi tính (+10,8%); Xơ, sợi (+5,63%); máy móc thiết bị và dụng cụ phụ tùng (+4,64%) …
Thị trường xuất khẩu 7 tháng tập trung chủ yếu ở các nước: Hoa Kỳ đạt 4.042,3 triệu USD, chiếm 30,45%; Nhật Bản đạt 1.287,7 triệu USD, chiếm 9,7%; Trung Quốc đạt 1.282,1 triệu USD, chiếm 9,6%; Hàn Quốc ước đạt 742 triệu USD, chiếm 5,6% ...
Kim ngạch nhập khẩu tháng 7 năm 2024 ước đạt 1.461 triệu USD, tăng 3,37% so tháng trước và tăng 17,82% so tháng cùng kỳ; lũy kế 7 tháng ước đạt 9.526,3 triệu USD, tăng 6,63% so cùng kỳ. Kim ngạch nhập khẩu 7 tháng tăng khá do sản xuất và tiêu thụ trong nước tăng, nhiều doanh nghiệp ký được đơn hàng sản xuất mới, nên đẩy mạnh nhập khẩu nguyên liệu để phục vụ sản xuất. Một số mặt hàng nhập khẩu chủ yếu 7 tháng tăng so cùng kỳ như: Chất dẻo nguyên liệu tăng 8,84%; Cao su tăng 13,03%; Gỗ và sản phẩm từ gỗ tăng 13,52%; Xơ, sợi dệt các loại tăng 19,15%; Vải các loại tăng 12%; Nguyên phụ liệu dệt, may, da giày tăng 20,17%; Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện tăng 32,09%...
Về thị trường nhập khẩu hàng hóa, Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của tỉnh, ước 7 tháng đạt 2.975,8 triệu USD, chiếm 31,24%; Hàn Quốc ước đạt 1.281 triệu USD, chiếm 13,45%; Nhật Bản ước đạt 671 triệu USD, chiếm 7,05%; Hoa Kỳ đạt 564,5 triệu USD, chiếm 5,93%...
Tính chung 7 tháng, xuất siêu trên địa bàn tỉnh ước đạt 3.749 triệu USD. Bình quân mỗi tháng xuất siêu khoảng 536 triệu USD.
5.4. Giao thông vận tải
Hoạt động vận tải tăng trưởng khá, nhu cầu vận chuyển vật liệu xây dựng phục vụ cho các dự án xây dựng trên địa bàn tỉnh tăng, bên cạnh đó sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh có nhiều khởi sắc nên nhu cầu sử dụng các dịch vụ vận tải và hỗ trợ vận tải tăng… làm cho doanh thu và sản lượng dịch vụ vận tải hàng hóa và hành khách tăng so với cùng kỳ.
Doanh thu vận tải, dịch vụ kho bãi, hỗ trợ vận tải tháng 7 năm 2024 ước đạt 3.152,3 tỷ đồng, tăng 1,49% so tháng trước và tăng 17,09% so cùng tháng năm trước. Tính chung 7 tháng ước đạt 22.119,2 tỷ đồng, tăng 15,71% so cùng kỳ. Cụ thể:
+ Doanh thu vận tải hành khách tháng 7 ước đạt 401,2 tỷ đồng, tăng 1,93% so tháng trước và tăng 21,17% so cùng tháng năm trước. Luỹ kế 7 tháng ước đạt 2.881,7 tỷ đồng, tăng 16,8% so cùng kỳ. Khối lượng vận chuyển hành khách trong tháng 7 ước đạt hơn 6,9 triệu lượt khách, tăng 1,66% so tháng trước và tăng 14,32% so với cùng kỳ. Lũy kế 7 tháng vận chuyển hành khách ước đạt 50,3 triệu lượt khách, tăng 10,89% so cùng kỳ. Luân chuyển hành khách tháng 7 ước đạt 413 triệu HK.km tăng 1,72% so tháng trước và tăng 16,07% so với cùng kỳ, lũy kế 7 tháng ước đạt 2.990,7 triệu HK.km tăng 11,13% so với cùng kỳ.
+ Doanh thu vận tải hàng hoá tháng 7 ước đạt 1.818,1 tỷ đồng, tăng 1,42% so tháng trước và tăng 17,7% so cùng tháng năm trước. Luỹ kế 7 tháng doanh thu vận tải hàng hoá ước đạt 12.715,1 tỷ đồng, tăng 16,67% so cùng kỳ. Khối lượng vận tải hàng hóa tháng 7 ước đạt 7,9 triệu tấn, tăng 1,36% so với tháng trước và tăng 15,38% so cùng kỳ. Lũy kế 7 tháng ước đạt 55,5 triệu tấn, tăng 13,66% so với cùng kỳ. Luân chuyển hàng hóa tháng 7 ước đạt 678,9 triệu tấn.km, tăng 1,3% so tháng trước và tăng 15,8% so cùng kỳ. Lũy kế 7 tháng ước đạt 4.761,8 triệu tấn.km, tăng 14,54% so với cùng kỳ
+ Doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải tháng 7 ước đạt 933 tỷ đồng tăng 1,43% so với tháng trước và tăng 14,28% so với tháng cùng kỳ. Tính chung 7 tháng ước đạt 6.522,4 tỷ đồng, tăng 13,4% so cùng kỳ.
6. Tài chính - Ngân hàng
a) Tài chính
Tổng thu ngân sách nhà nước 7 tháng đầu năm 2024 ước đạt 33.123,72 tỷ đồng, tăng 12,37% so với cùng kỳ. Từ đầu năm đến nay tình hình sản xuất kinh doanh của hầu hết doanh nghiệp có sự phục hồi nên tác động đáng kể đến nguồn thu, các khoản thu chủ yếu đều tăng so cùng kỳ. Trong đó: Thu nội địa ước đạt 22.238,41 tỷ đồng, tăng 11,6% so cùng kỳ; một số khoản thu tăng khá so cùng kỳ như: Thu từ doanh nghiệp nhà nước đạt 1.960,33 tỷ đồng, tăng 18,44%; thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh 3.683,58 tỷ đồng, tăng 20,08%; thu từ doanh nghiệp đầu tư nước ngoài 7.730,8 tỷ đồng, tăng 7,94%; thuế thu nhập cá nhân 3.971,38 tỷ đồng, tăng 15,66% so với cùng kỳ; Thu cân đối hoạt động xuất nhập khẩu (đã loại trừ hoàn thuế) ước đạt 2.495,74 tỷ đồng, tăng 52,93% so với cùng kỳ.
Tổng chi ngân sách Nhà nước 7 tháng đầu năm 2024 ước đạt 21.610,57 tỷ đồng, tăng 36,85% so với cùng kỳ. Trong đó: Chi đầu tư phát triển đạt 12.065,59 tỷ đồng, tăng 55,44% (chủ yếu chi đầu tư cho các dự án theo các lĩnh vực 11.731,17 tỷ đồng, tăng 82,68%); Chi thường xuyên đạt 9.542,97 tỷ đồng, tăng 18,89% so với cùng kỳ.
b) Hoạt động Ngân hàng
Tổng nguồn vốn huy động của các TCTD trên địa bàn ước đến 31/7/2024 đạt 331.930 tỷ đồng, tăng 3,44% so với đầu năm. Bao gồm: Phát hành giấy tờ có giá ước đạt 2.870 tỷ đồng, tăng 8,51%; Tiền gửi ước đạt 329.060 tỷ đồng, tăng 3,4% (Trong đó: Tiền gửi bằng đồng Việt Nam ước đạt 309.625 tỷ đồng, tăng 3,14%; Tiền gửi bằng ngoại tệ ước đạt 19.435 tỷ đồng, tăng 7,66% so với đầu năm).
Hoạt động tín dụng: Dự ước đến 31/7/2024 tổng dư nợ cấp tín dụng trên địa bàn ước đạt 391.874 tỷ đồng, tăng 7,79% so với đầu năm (nợ xấu ước chiếm 1,86% trên tổng dư nợ cho vay). Bao gồm: Giá trị các khoản đầu tư trái phiếu doanh nghiệp ước đạt 1.530 tỷ đồng, giảm 7,22%; Tổng dư nợ cho vay ước đạt 390.344 tỷ đồng, tăng 7,86% so đầu năm (Trong đó: Dư nợ ngắn hạn ước đạt 244.220 tỷ đồng, tăng 11,27%; Dư nợ trung, dài hạn ước đạt 146.124 tỷ đồng, tăng 2,61%).
II. VĂN HÓA - XÃ HỘI
1. Văn hóa, thể thao
Trong tháng 7/2024, ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch triển khai các đơn vị tập trung tuyên truyền các nhiệm vụ chính trị như: Trang trí tuyên truyền cổ động trực quan kỷ niệm các ngày lễ, phục vụ các nhiệm vụ chính trị của đất nước, của tỉnh bằng nhiều hình thức như: Treo cờ Đảng, cờ Tổ quốc, cờ nội dung, cờ phướn, băng rôn; thay đổi nội dung pano hộp đèn, thay đổi nội dung pano cố định,..
Hoạt động thể thao trong tháng tập trung tổ chức và tham gia các giải: Tổ chức giải Vô địch các Câu lạc bộ Futsal nam tỉnh Đồng Nai năm 2024; tổ chức Giải Bóng đá Vô địch các xã, phường, thị trấn tỉnh Đồng Nai năm 2024; Lễ phát động toàn dân tập luyện môn bơi phòng, chống đuối nước và khai giảng lớp phổ cập bơi và Giải bơi học sinh khối tiểu học thành phố Biên Hòa năm 2024. Tổ chức Giải Vô địch Muay trẻ quốc gia năm 2024; Tổ chức Giải Vô địch Cầu mây trẻ quốc gia năm 2024; Tổ chức Giải Vô địch Bi sắt các Câu lạc bộ tỉnh Đồng Nai mở rộng năm 2024.
2. Y tế
* Tình hình dịch bệnh: Trong tháng ghi nhận 294 ca mắc sốt xuất huyết, tăng 58,92% so với tháng trước và giảm 17,88% so với tháng cùng kỳ, không có ca tử vong. Tay chân miệng: ghi nhận 767 ca mắc, giảm 32,95 so với tháng trước và giảm 40,03% so với tháng cùng kỳ, không ghi nhận ca tử vong. Sởi: ghi nhận 03 ca mắc, tăng 03 ca so với tháng trước. Ho gà: ghi nhận 01 ca mắc mới, giảm 03 ca so với tháng trước. Đậu mùa khỉ: ghi nhận 01 ca mắc. Một số dịch bệnh khác như: Sốt rét, uốn ván, tả, thương hàn, cúm.... trong tháng không ghi nhận trường hợp mắc.
Công tác đảm bảo an toàn thực phẩm: Trong tháng 7/2024 đã thực hiện 1.363 lượt kiểm tra cơ sở sản xuất, chế biến thực phẩm, dịch vụ ăn uống và kinh doanh tiêu dùng thực phẩm trên 12.192 tổng số cơ sở, trong đó: 1.260 cơ sở đạt (chiếm 92,44%), số cơ sở vi phạm là 103, nhắc nhở 92 cơ sở, xử phạt hành chính 11 cơ sở với số tiền 77 triệu đồng, không xảy ra ngộ độc thực phẩm trên địa bàn. Cộng dồn từ đầu năm đến nay xảy ra 03 vụ ngộ độc thực phẩm với 664 ca mắc, ghi nhận 01 ca mắc tử vong.
3. Giáo dục
Một số hoạt động giáo dục trọng tâm trong tháng 7/2024: Thu nhận hồ sơ phúc khảo bài thi Kỳ thi tuyển sinh lớp 10 THPT năm học 2024-2025. Thẩm tra, cấp phát văn bằng, chứng chỉ theo một cửa liên thông. Hoàn thành tốt công tác tổ chức Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2024, toàn tỉnh có tổng số 34.088 thí sinh đăng ký dự thi (trong đó có 27.935 thí sinh THPT, 6.153 thí sinh GDTX (1.237 thí sinh tự do)) tại 62 Điểm thi trên địa bàn tỉnh; tổng số nhân sự tham gia phục vụ kỳ thi khoảng 6.000 người. Tổ chức chấm thi Tốt nghiệp THPT năm 2024; công bố kết quả thi; duyệt kết quả tốt nghiệp.
Hoàn thành hồ sơ cho vận động viên và tham gia Hội khỏe Phù Đổng toàn quốc năm 2024, do Bộ GDĐT tổ chức tại thành phố Hải Phòng. Tiếp tục biên soạn tài liệu giáo dục địa phương lớp 5, 9 và 12. Tiếp tục phối hợp tập huấn giới thiệu sách giáo khoa các lớp 5, 9, 12. Hoàn thành Báo cáo Bộ GDĐT về kết quả thực hiện chương trình năm học 2023-2024 và tổng kết năm học 2023-2024. Duyệt kết quả tuyển sinh lớp 10 năm học 2024-2025. Rà soát xây dựng nội dung thi học sinh giỏi lớp 12 các môn học từ năm học 2024-2025 trở đi. Rà soát nội dung thi tuyển sinh lớp 10 năm học 2024-2025 theo chương trình phổ thông mới. Kiểm tra công nhận trường đạt chuẩn quốc gia theo đề nghị của các đơn vị.
4. Giải quyết việc làm và đào tạo nghề
Trong tháng 7/2024, phối hợp các sở, ban, ngành và các doanh nghiệp dịch vụ việc làm giải quyết việc làm cho 11.208 lượt người. Lũy kế 7 tháng đầu năm đạt 65.944 lượt người, đạt 82,43% kế hoạch năm, tăng 21,23% so với cùng kỳ.
Tiếp nhận 5.057 hồ sơ đề nghị hưởng bảo hiểm thất nghiệp, lũy kế 7 tháng có 33.619 hồ sơ, giảm 16,4% so với cùng kỳ, đã ban hành 5.079 quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp, lũy kế 7 tháng là 32.619 quyết định, giảm 10,7% so với cùng kỳ năm trước. Tư vấn và giới thiệu việc làm cho số lao động thất nghiệp 5.097 người, lũy kế 7 tháng là 33.946 người, hỗ trợ học nghề cho 67 người, lũy kế 7 tháng là 525 người.
Trong tháng 7/2024, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn tỉnh tuyển mới đào tạo cho 8.634 học viên. Lũy kế 7 tháng tuyển mới đào tạo 43.012 trên tổng số 65.500 học viên, đạt 66,17% kế hoạch năm, tăng 1,09% so với năm 2023.
Tốt nghiệp trong kỳ: Trong tháng các trường và Cơ sở giáo dục nghề nghiệp đã tốt nghiệp và có chứng chỉ 5.030 học viên. Lũy kế 7 tháng có 36.731/60.000 học viên tốt nghiệp, đạt 61,22% so với kế hoạch năm, giảm 0,99% so với cùng kỳ.
Trên đây là các nội dung chủ yếu về tình hình kinh tế - xã hội tháng 7 năm 2024 trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Cục Thống kê xin được thông báo."