Ông Trần Công An tên trong giấy khai sinh là Trần Văn Kìa hay còn gọi là Hai Cà. Cha mất sớm, ý thức được hoàn cảnh và thân phận của mình nên Hai Cà lo giúp mẹ lao động miệt mài cật lực, hết cày ruộng cấy lúa, trồng mía ép đường, xay bột làm bánh tráng bán kiếm tiền tích góp từng xu, từng cắc.
Năm 15 tuổi, Hai Cà đã trả được món nợ mua chịu đôi trâu hết 40 đồng của năm trước và còn dư 100 đồng làm vốn tích lũy. Đến năm 17 tuổi, mẹ con anh Hai đã có đôi trâu, có lúa đầy bồ, có đường mấy chục lu và 200 đồng mua căn nhà cột vuông, lợp ngói thay cho căn nhà tranh, vách lá lúc mới ra riêng.
Đến năm 18 tuổi, Hai Cà lấy vợ do bà Nguyễn Thị Phố, má ông sắp đặt theo hình mẫu “những người thắt đáy, lưng ong đã khéo chiều chồng, lại khéo nuôi con”. Đến năm 1944, lúc đó Hai Cà mới 24 tuổi nhưng đã tích lũy mua 3 mẫu ruộng với giá 6.000 đồng và xây ngôi nhà 3 gian, 2 mái bằng gỗ căm xe trị giá 1.600 đồng. Nên nhớ hồi đó, giá 1 giạ lúa chỉ có 5 cắc để mới thấy hết giá trị lao động của chàng lực điền Hai Cà.
Từ một người chỉ biết chí thú làm ăn, lo chăm chút gia đình, chẳng màng thế sự, nhưng vào ngày 23-8-1945, vào lúc nửa đêm trừ tịch, bỗng nghe thấy tiếng trống đình Nhựt Thạnh thúc liên hồi, như giục giã, như kêu gọi... làm chàng trai Hai Cà và bà con nhân dân cù lao Rùa bừng tỉnh giấc sau cơn mê... Đó là tiếng trống của anh Nguyễn Văn Nghĩa, người được Chi bộ Bình Ý - Tân Triều kết nạp vào Đảng từ năm 1935.
Người duy nhất trong làng hiểu được tiếng trống lệnh ấy, chính là anh Mai Sơn Việt, cơ sở của ông Huỳnh Văn Tuyển, một trong 3 người của nhóm Hoàng Mai Lưu, lúc đó là Ủy viên Đảng Đoàn phong trào thanh niên Tiền Phong. Thế là sau đó, 2 anh Nguyễn Văn Nghĩa và Mai Sơn Việt gặp nhau bàn việc cướp chính quyền vào sáng hôm sau. 4 trung đội của lực lượng Thanh niên Tiền Phong được huy động, ngày 24-8-1945, lúc mặt trời vừa lên đỏ ửng ở phía Đông bờ sông Đồng Nai, dân làng và lực lượng Thanh niên Tiền Phong với tầm vông vạt nhọn, tề tựu trước cột cờ sân lễ ở miếu Bà cùng 25 chiến sĩ tự vệ chiến đấu, trong đó có Hai Cà.
Sau khi giành chính quyền, anh Hai Cà được phân công làm Xã đội trưởng Thạnh Hội, anh suy nghĩ rất nhiều phương án đánh địch, như anh đã từng nói với đồng đội: “Đánh địch để khi chúng qua đây phải ngán đất này”. Một trong những phương án mà anh Hai Cà chọn là tổ chức những thanh niên chiến đấu giỏi võ, bơi lặn tốt giả làm người lái đò, nếu lính Pháp, lính Việt đi đò qua cù lao Rùa hà hiếp nhân dân, bắt heo bắt bò thì chọn địa điểm hợp lý lật cho đò chìm, dùng dầm chèo đập đầu giết chết bọn chúng, súng ống sẽ mò lấy sau.
Phương án này chưa kịp thực hiện thì thời cơ chiến đấu đến với Hai Cà, khi anh được cơ sở là ông Hai Lê báo có một lính Pháp dẫn một người tù qua sông tìm bông hoa cho ngày lễ Giáng sinh năm 1946 sắp tới. Anh liền đóng giả một người nông dân vừa đi cày về, tay cầm roi mây, đầu đội nón lá, áo ngoài che khuất sợi dây thừng đã thắt thòng lọng giắt ở eo lưng. Đi đến trước cổng nhà cô giáo Đạn, tên lính Pháp dừng lại nhìn ngắm hàng rào dâm bụt đỏ rực, thì anh cũng vừa đến, gỡ nón cúi đầu chào và nói bằng tiếng Pháp: “Eh vous! Ici beaucoup fleurs”(Thưa ông, đằng kia có nhiều bông lắm). Tên lính Pháp gật đầu: “Oui, oui!”. Hai Cà nói tiếp: “Avancer vite Je suis en ariere vous” (ông bước lên phía trước, tôi đi phía sau, dẫn ông ấy đến vườn có nhiều bông lắm). Khi đi qua khỏi nhà thầy Tư Đố phải bước qua một mương thoát nước, rộng khoảng 1,2m, sâu 5 tấc, tên lính Pháp bước xuống mương, chân phải đặt lên bờ mương bên kia, chân trái vừa nhóm gót, nhanh như chớp, Hai Cà nắm cổ chân trái giật mạnh, đầu hút vào lưng của y, bị mất thăng bằng tên lính Pháp ngã xuống mương một cái ạch, cây súng văng ra phía trước. Tên lính Pháp cao to chống trả quyết liệt nhưng trước các thế võ của Hai Cà, cuối cùng sợi dây thòng lọng cũng được tròng vào cổ và trói thúc ké 2 tay của gã ra sau lưng. Rồi Hai Cà giải tên tù binh lên Bình Chánh vào căn cứ của Huyện ủy Tân Uyên bàn giao cho ông Huỳnh Văn Đính, là anh hai của anh Năm Bình, lúc đó mới mười một mười hai tuổi gì đó rồi nói: “Anh Hai cho tôi cây súng này về khoe với đồng bào, tôi sẽ sắp xếp chuyện gia đình rồi đi bộ đội luôn”.
Mang khẩu súng quay về cù lao Rùa, lòng Hai Cà ngổn ngang bao nỗi suy nghĩ: “Tự hào mình vừa lập được chiến công, tay không bắt giặc, nhưng vừa lo mình thoát ly đi bộ đội chẳng có gì phải băn khoăn nhưng mẹ già, vợ trẻ, con thơ sẽ sống như thế nào giữa vùng kiểm soát của giặc?”. Nhưng khi về gần tới nhà, Hai Cà đã có quyết định: Anh thưa với mẹ, nói với vợ, bận này con sẽ rời gia đình lên chiến khu tham gia kháng chiến. Mặc dù, anh là con một nhưng bà Nguyễn Thị Phố, người mẹ lam lũ của anh vẫn đồng ý cho con thoát ly gia đình, riêng vợ anh với gương mặt đượm buồn, cũng gật đầu. Anh xin phép mẹ, đốt 3 nén nhang rồi quỳ xuống trước bàn thờ tổ tiên lâm râm khấn: “Giặc Pháp cướp nước đang giết người yêu nước, đốt nhà dân. Việt Minh kêu gọi kháng chiến trường kỳ, bổn phận là thanh niên nước nhà, là cháu của tổ tiên họ Trần, là con trai của cha, con phải tòng quân kháng chiến. Được mẹ đồng ý, con xin đốt nhà từ đường này, để quân cướp nước thấy tinh thần bất khuất của dân ta”.
Chờ cho 3 nén nhang vừa tàn, anh Hai Cà nhờ những thanh niên, du kích lấy những bó bã mía chuẩn bị cho mùa nấu đường năm sau chất tận họng trính, họng kèo rồi tưới dầu hôi tự tay châm lửa đốt nhà. Trong khi ngọn lửa từ trái tim của người vừa giác ngộ cách mạng bùng cháy sáng rực một góc Cù lao Rùa, mẹ anh đẫm nước mắt quay đi chỗ khác, còn vợ Hai Cà bụm mặt khóc nức nở, anh lẳng lặng bước đến trước bàn thờ ông Thiên đốt 3 nén nhang và khấn: “Hôm nay, vì bổn phận trung với Tổ quốc, hiếu với gia đình, làng mạc, con phải đốt nhà từ đường của cha mẹ. Kính xin Trời Phật chứng giám lòng trung thành của con và thanh niên trong làng, phù hộ mẹ, vợ con của con và bà con trong làng tránh được sự khủng bố của giặc Pháp”.
Tác giả: MAI SÔNG BÉ
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Hôm nay
Tổng lượt truy cập