THÀNH TỰU 30 NĂM XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NGÀNH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH ĐỒNG NAI (1978-2008)

Thứ tư - 21/07/2021 15:04
  • Xem với cỡ chữ 
  •  
  •  
  •  
Ngày 27/8/1977, Chủ tịch UBND tỉnh đã ký Quyết định số 705/QĐ.UBT thành lập Ban Khoa học và Kỹ thuật Đồng Nai, tiền thân của Sở KHCN ngày nay. Điều này cho thấy vai trò của khoa học và kỹ thuật đối với việc phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ an ninh - quốc phòng trên địa bàn tỉnh được xác định là cần thiết và quan trọng; đồng thời đây là mốc thời gian có ý nghĩa, đánh dấu sự trưởng thành của đội ngũ trí thức tỉnh Đồng Nai đủ sức gánh vác nhiệm vụ của tỉnh giao về nghiên cứu và ứng dụng khoa học - kỹ thuật phục vụ nhu cầu sản xuất và đời sống của địa phương.

Từ ngày thành lập đến nay, cơ quan đã qua các lần thay đổi tên cho phù hợp với chức năng và nhiệm vụ KHCN của từng giai đoạn:

-          Từ năm 1977 đến năm 1988 là Ban Khoa học và Kỹ thuật;

-          Từ năm 1988 đến năm 1993 là Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật;

-          Từ năm 1993 đến năm 2003 là Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường;

-       Và từ năm 2003 đến nay là Sở KHCN, được đổi tên theo Quyết định số 1747/2003/QĐ.UBT ngày 18/06/2003 của UBND tỉnh Đồng Nai.

Với 4 lần thay đổi tên, nhưng hoạt động KHCN tỉnh Đồng Nai có thể nhìn qua 3 thời kỳ sau:

THỜI KỲ KHCN GÓP PHẦN KHÔI PHỤC KINH TẾ (1978-1986).

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng và thống nhất đất nước, mạng lưới khoa học và kỹ thuật các tỉnh, thành phố được thành lập. Mặc dù tiềm lực kinh tế và tiềm lực khoa học-kỹ thuật được 2 miền Nam - Bắc bổ sung, hỗ trợ cho nhau, song hoạt động KHCN của các địa phương nói chung vẫn còn rất nhiều khó khăn do hậu quả chiến tranh để lại. Cơ sở vật chất - kỹ thuật, hạ tầng yếu kém, lạc hậu. Máy móc, thiết bị trong sản xuất do mới tiếp quản, gặp khó khăn về nguyên - nhiên liệu, thiếu cán bộ kỹ thuật và công nhân vận hành lành nghề. Hệ thống giao thông, cầu đường vốn đã đơn sơ lại còn xuống cấp trầm trọng. Nguồn điện, nước thiếu hụt, hệ thống thiết bị và công nghệ cung cấp không chỉ thủ công, lạc hậu mà còn bị hư hỏng không có thiết bị thay thế. Y tế, giáo dục nhìn chung còn thiếu thốn cả về nhân lực và vật lực. Kinh tế vẫn dựa trên sản xuất nhỏ và mất nhiều cân đối do cơ chế quản lý mang nặng tính hành chính quan liêu, bao cấp.

Trong bối cảnh đó, hoạt động của Ban  Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đồng Nai sau khi thành lập, chủ trương trước mắt giải quyết những vấn đề khoa học - kỹ thuật cụ thể để đáp ứng nhu cầu sản xuất nhằm đảm bảo đời sống; tiếp đến từng bước phối hợp với các ngành, các cấp trong tỉnh khắc phục tình trạng khoa học và kỹ thuật còn thiếu thốn, thấp kém và lạc hậu; đồng thời cùng với các ban, ngành thực hiện các chương trình trọng điểm về nông nghiệp và công nghiệp liên quan đến khoa học và kỹ thuật để khôi phục và phát triển kinh tế, củng cố chính trị, an ninh quốc phòng trên địa bàn tỉnh. Đi đôi với những nhiệm vụ trên, công tác quản lý khoa học và kỹ thuật trong giai đoạn này cũng đã  được thực hiện tích cực, như xây dựng và tổ chức bộ máy cơ quan; quản lý hoạt động tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng trên toàn tỉnh đi vào hoạt động; công tác phổ biến kiến thức khoa học và kỹ thuật để nâng cao dân trí qua các tài liệu và bản tin cũng được phát hành định kỳ; phong trào sáng kiến cải tiến, hợp lý hóa sản xuất được tuyên truyền và phát động trên toàn tỉnh nhằm giúp các cơ sở, xí nghiệp, nhà máy quốc doanh trong việc duy trì sản xuất và tăng năng suất.

Bộ máy Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật thời kỳ này vỏn vẹn có 03 phòng nghiệp vụ: Phòng Tổ chức - Hành chính; Phòng Tổng hợp - Kế hoạch; Phòng Tiêu chuẩn – Đo lường - Chất lượng. Trong đó Phòng Tổng hợp – Kế hoạch là phòng nghiệp vụ lớn nhất của cơ quan với 5 tổ chuyên môn: Tổ Điều tra cơ bản; Tổ Thông tin - Tư liệu; Tổ Sáng kiến cải tiến kỹ thuật; Tổ Nghiên cứu khoa học xã hội.

(Hình: Sơ đồ tổ chức bộ máy  với Ban chủ nhiệm và 03 phòng, phòng Tổng hợp-Kế hoạch với 05 tổ)

THỜI KỲ ĐỔI MỚI CƠ CHẾ QUẢN LÝ ĐỂ PHÁT TRIỂN KHCN
VÀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG (1986- 2003)

Từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI, năm 1986, khởi xướng công cuộc đổi mới, hoạt động khoa học - kỹ thuật tỉnh dưới sự chỉ đạo toàn diện của Tỉnh ủy, UBND tỉnh và đặc biệt sự hướng dẫn về chuyên môn của Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước đã có những chuyển biến và phát triển tích cực. Cùng với việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, cơ chế quản lý khoa học và kỹ thuật bước đầu được đổi mới phù hợp với nền kinh tế thị trường, như khuyến khích các tổ chức, cá nhân nghiên cứu, sáng tạo và áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất và đời sống; các tổ chức khoa học và kỹ thuật ra đời; các hợp đồng khoa học- kỹ thuật được thực hiện; kết quả nghiên cứu, ứng dụng khoa học- kỹ thuật được trả công tương xứng; quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp được Nhà nước bảo hộ; các hội đồng khoa học và kỹ thuật được được củng cố, nâng cao về số lượng và chất lượng.

Kết quả trong giai đoạn này đã có nhiều đề tài, dự án KHCN thuộc nhiều lĩnh vực được nghiên cứu thực hiện mang lại hiệu quả thực tế cho đời sống xã hội, tiêu biểu như Chương trình “ Phát triển toàn diện kinh tế-xã hội nông thôn” mà huyện Định Quán Đồng Nai được chọn làm điểm (Chương trình KX.08). Công tác quản lý môi trường được tăng cường đẩy mạnh ngay từ khi mới được nhập chung vào hoạt động cùng với KHCN. Trình độ đội ngũ cán bộ KHCN được bắt đầu quan tâm. Bên cạnh số lượng tuyển dụng mới gia tăng, nhiều cán bộ được chọn theo học các khóa tập huấn ngắn và dài hạn được tổ chức trong và ngoài nước để nâng cao trình độ đáp ứng yêu cầu thực tế. Cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm được đầu tư và nâng cấp.

Nhìn chung, quản lý KHCN, quản lý môi trường, quản lý tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng, quản lý sở hữu công nghiệp, công tác thông tin khoa học –công nghệ, thanh tra khoa học, công nghệ và môi trường trong giai đoạn này được đẩy mạnh đều khắp.

Dưới ánh sáng Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII (1996) về định hướng phát triển KHCN trong thời kỳ công nghiệp hóa-hiện đại hóa, hoạt động KHCN tiếp tục tập trung đổi mới cơ chế quản lý trên một số nội dung chủ yếu để đáp ứng đòi hỏi của nền kinh tế thị trường đang phát triển mạnh, như gắn nghiên cứu với đào tạo và  sản xuất kinh doanh; tăng kinh phí cho các dự án sản xuất thử nghiệm, các dự án xây dựng mô hình áp dụng KHCN phục vụ phát triển nông thôn, miền núi; tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho các tập thể, cá nhân nhà khoa học thành lập các tổ chức KHCN và đăng ký hoạt động; cho phép thành lập các doanh nghiệp trong các cơ sở nghiên cứu để sản xuất sản phẩm từ kết quả nghiên cứu; tăng cường bảo hộ pháp lý đối với các quyền sở hữu trí tuệ; khuyến khích chuyển giao công nghệ, thúc đẩy hình thành thị trường KHCN; đặc biệt đẩy mạnh công tác quản lý và bảo vệ môi trường;

Đảm nhận và hoàn thành được các nhiệm vụ trên, Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường trong giai đoạn này hơn bao giờ hết tập trung củng cố tổ chức, xây dựng cơ sở vật chất và phát triển đội ngũ cán bộ. Dự án giảm thiểu ô nhiễm môi trường do Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc tài trợ giúp xây dựng Trạm Quan trắc với phòng thí nghiệm cơ-lý-hóa-sinh được trang bị máy móc hiện đại tập trung chủ yếu phục vụ cho công tác bảo vệ môi trường trên toàn tỉnh.

Bộ máy cơ quan giai đoạn này được tổ chức với Ban Giám đốc gồm 04 đồng chí, 01 Giám đốc và 03 Phó Giám đốc; các phòng, bộ phận gồm: Phòng tổ chức hành chính; Phòng Quản lý Khoa học và Công nghệ; Phòng Quản lý Môi trường; Phòng Thông tin - Tư liệu và Sở hữu công nghiệp; Thanh tra Sở; và Chi Cục Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất lượng. Tổng số lượng cán bộ công chức cơ quan gần 70 người.

Trong giai đoạn này, nhiều chương trình, đề tài, dự án có ý nghĩa thực tế được ưu tiên thực hiện, góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế-xã hội tỉnh, đồng thời bước đầu tạo nên những dấu ấn, mốc son cho hoạt động KHCN tỉnh nhà, như đề tài xây dựng địa chí Đồng Nai; Lịch sử Giai cấp công nhân Đồng Nai; Đặt lại tên đường cho Tp. Biên Hoà; Trồng rau an toàn; Dự án giảm thiểu ô nhiễm môi trường (VIE/95/053) do Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc tài trợ; Phong trào Hội thi sáng tạo kỹ thuật được UBND tỉnh quyết định tổ chức hàng năm; hàng trăm nhãn hiệu hàng hoá của doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh được xác lập;

Thông tin KHCN phục vụ công tác lãnh đạo, phổ biến kiến thức, thành tựu KHCN nhằm nâng cao dân trí được liên tục phát triển cả về số lượng và chất lượng; Trung tâm Thông tin và Tư liệu lần đầu tiên được thành lập để mở đầu cho việc đảm nhận chức năng và nhiệm vụ ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin trên địa bàn tỉnh do tỉnh giao, đồng thời để thực hiện kế hoạch tin học hóa cơ quan, ứng dụng công nghệ thông tin để phát triển thông tin KHCN và phát triển hệ thống thông tin địa lý (G.I.S) v.v…

SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH ĐỒNG NAI
TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ.

Ttháng 7/2003, thực hiện Thông tư Liên tịch số 15/2005/TTLT-BKHCN-BNV của Bộ KH&CNBộ Nội vụ, Sở Khoa học và Công nghệ được hình thành mới trên cơ sở tách chức năng quản lý nhà nước về môi trường - một thế mạnh với tiềm lực lớn đã đầu tư được chuyển giao cho đơn vị khác. Tổng số cán bộ cơ quan chỉ còn lại hơn 30 người.

Tuy phải đối mặt với thực tế nhiều khó khăn vào giai đoạn mới này, nhưng nhờ sự quyết tâm của tập thể cán bộ, sự lựa chọn đúng đắn hướng phát triển KHCN trong thời kỳ mới, Sở đã nhanh chóng tiến hành xây dựng, tổ chức mới lại bộ máy có cơ cấu mạnh hơn, gồm 8 đơn vị trực thuộc: Văn phòng Sở; Phòng Quản lý Khoa học; Phòng Quản lý Công nghệ; Phòng Kế hoạch – Tài chính; Thanh tra Sở; Chi cục Tiêu chuẩn-Đo lường-Chất lượng; Trung tâm Ứng dụng Tiến bộ KHCN; Trung tâm Tin học và Thông tin KHCN.

Với bộ máy trên và được sự quan tâm chỉ đạo, động viên của Tỉnh ủy, UBND tỉnh, Sở KH&CN đã dốc sức tập trung thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm nhằm tạo thế và lực cho việc xây dựng và phát triển KHCN trong giai đoạn này, cụ thể gồm:

Chọn công nghệ thông tin và công nghệ sinh học làm mũi nhọn để phát triển KHCN phục vụ phát triển kinh tế-xã hội tỉnh Đồng Nai.

- Ưu tiên cho ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin trong toàn bộ công tác quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ; và sau đó là đầu tư ứng dụng và phát triển công nghệ sinh học;

- Phát triển tiềm lực trên cơ sở đầu tư một số dự án trọng điểm cho KHCN;

- Đẩy mạnh đổi mới cơ chế quản lý KHCN để tạo điều kiện thuận lợi xây dựng các nhóm đề tài, dự án gắn với nhu cầu thực tế của sản xuất và đời sống; nghiên cứu thực hiện một số sản phẩm KHCN có hàm lượng chất xám cao, mang tính cạnh tranh và thương mại để góp phần tạo lập thị trường KHCN, đồng thời làm tiền đề cho quan hệ hợp tác và hội nhập KHCN khu vực và thế giới.

Thành lập các đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở để thực hiện các nhiệm vụ công ích, dịch vụ công về KHCN, đồng thời làm nhân tố, đầu mối hình thành các tổ chức, dịch vụ KHCN để chủ động tham gia vào các hoạt động KHCN trên địa bàn tỉnh.

Kết quả sau gần 5 năm thành lập và với sự quyết tâm, nỗ lực của toàn thể cán bộ công chức Sở Khoa học và Công nghệ, nhiều chương trình, đề tài, dự án được thực hiện thành công, đóng góp không nhỏ vào sự nghiệp kinh tế-xã hội của tỉnh.

1. Xây dựng cơ quan lớn mạnh:

Tổng số cán bộ, công chức của Sở tăng từ 34 người năm 2003 lên 130 người năm 2008. ­­Đã có thêm các đơn vị, văn phòng mới được thành lập, như: Trung tâm Phát triển phần mềm; Văn phòng 2 - Sở KH&CN Đồng Nai tại Tp. HCM; Văn phòng Tiết kiệm năng lượng; Văn phòng Thông báo và hỏi đáp về rào cản kỹ thuật trong thương mại (TBT­)­­­­; Văn phòng Hội Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

Văn phòng điện tử (M-Office) là công cụ tiên tiến thực hiện việc quản lý, điều hành cơ quan, đạt ISO 9001: 2000 theo phương thức Online năm 2005 và trở thành đơn vị duy nhất trong cả nước được chứng nhận theo phương thức này.

2. Lĩnh­­ vực công nghệ thông tin với các sản phẩm có chất lượng cao,
có khả năng thương mại hoá góp phần phát triển thị trường KHCN:

Nhiều sản phẩm, như Văn phòng điện tử (M-Office); phần mềm chữ ký điện tử, mã hóa dữ liệu, khóa USK; Cổng an toàn thông tin trên công nghệ cách ly phi chuẩn (NSSP);

Phần mềm quản lý trực tuyến các đề tài, dự án nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; Phòng họp, hội thảo đa chức năng; các chương trình quản lý KHCN trực tuyến trong các lĩnh vực quản lý tiêu chuẩn - đo lường - chất lượng, đăng ký hội thi sáng tạo kỹ thuật; Ứng dụng công nghệ VSAT-IP, xây dựng 35 trạm cung cấp đường truyền có tốc độ cao cho các nơi chưa có dịch vụ ADSL.

3. Nhiều chương trình, dự án đầu tư được UBND tỉnh chấp thuận
đưa vào triển khai thực hiện, tạo tiềm lực cho KHCN phát triển:

          Dự án xây dựng công trình nhà làm việc của Sở; Dự án nâng cấp phòng hiệu chuẩn phục vụ công tác tiêu chuẩn-đo lường-chất lượng; Dự án nâng cấp hạ tầng công nghệ thông tin của Sở; Dự án đầu tư xây dựng Trung tâm Đo Kiểm (Chi nhánh Đo lường, Thử nghiệm Tiêu chuẩn-Đo lường-Chất lượng) tại huyện Nhơn Trạch; Dự án xây dựng Trung tâm Nghiên cứu Ứng dụng công nghệ sinh học tỉnh Đồng Nai;

         Dự án xây dựng mô hình và nhân rộng mô hình cung cấp thông tin KHCN phục vụ phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn các huyện; Dự án hệ thống mạng thông tin phục vụ công tác quản lý nhà nước về KHCN từ Sở đến Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Ban Tuyên giáo, phòng kinh tế các huyện, thị xã Long Khánh và thành phố Biên Hòa;

4. Đổi mới cơ chế quản lý KHCN, nghiên cứu gắn với thực tế,
đưa nhanh các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất và đời sống:

Giai đoạn từ năm 2003 đến nay có 113 đề tài thuộc nhiều lĩnh vực được nghiên cứu ứng dụng, chiếm tỉ lệ  37 % trên tổng số đề tài trong 30 năm. Kết quả đã cung cấp được luận cứ khoa học để xây dựng quy hoạch, kế hoạch kinh tế-xã hội tỉnh, xây dựng tiềm lực KHCN, tạo ra sản phẩm góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội từng thời kỳ.

Trong nông nghiệp, nhiều tiến bộ kỹ thuật mới về qui trình canh tác thâm canh, bảo vệ thực vật, giống đã được ứng dụng tương đối hiệu quả, làm tăng năng suất, chất lượng, đáp ứng được nhu cầu thực tiễn sản xuất, góp phần chuyển đổi cơ cấu cây trồng, tạo ngành nghề đặc thù của địa phương.

Dự án “ Xây dựng mô hình phát triển chăn nuôi bò thịt cao sản phục vụ phát triển kinh tế tại 2 xã An Viễn và Đồi 61 – Huyện Trãng Bom” thuộc Chương trình nông thôn miền núi. Dự án đã hổ trợ và huy động nguồn vốn của địa phương nhằm chuyển giao các công nghệ tiên tiến vào các khâu của sản xuất từ giống bò cao  sản Brahman, Sindbrah, kỹ thuật tuyển bò và chăn nuôi bò thịt, trồng cỏ, chế biến và bảo quản thức ăn, thiết kế chồng trại, chăm sóc, kỹ thuật thú y  … dự án đang phát huy tác dụng  góp phần phát triển sản xuất hàng hóa, tăng thêm thu nhập, tạo việc làm cho nông dân thúc đẩy phát triển KT-XH của  huyện và tỉnh Đồng Nai.

Trong lĩnh vực công nghệ sinh học, đã thực hiện được một số đề tài, dự án đạt hiệu quả trong sản xuất nông - lâm - thủy tại địa phương.

Đặc biệt đối với Bưởi biên Hòa, đặc sản Tân Triều. Đã thực hiện phân vùng quy hoạch cho cây bưởi; tuyển chọn giống bưởi đường lá cam sạch bệnh vàng lá Grenning; cung cấp cây đầu dòng; xây dựng và nhân rộng các mô hình thâm canh tổng hợp; mô hình xen canh phục vụ du lịch sinh thái, tạo ra năng suất, chất lượng cao tại các xã Tân Bình, Bình Lợi, Phú Lý, Tân An, Thiện Tân thuộc vùng bưởi Biên Hòa.

Định hướng trong thời gian tới, lĩnh vực nghiên cứu, ứng dụng công nghệ sinh học của tỉnh sẽ được phát triển mạnh hơn với việc Trung tâm nghiên cứu ứng dụng công nghệ sinh học của tỉnh Đồng Nai được thành lập tại huyện Cẩm Mỹ.

Trong lĩnh vực xã hội -nhân văn cũng triển khai, thực hiện được nhiều đề tài, dự án, tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc của Tỉnh, làm luận cứ cho hoạch định chủ trương chính sách, qui hoạch, kế hoạch quản lý kinh tế, quản lý xã hội, có giá trị phục vụ thiết thực cho công tác lãnh đạo và chỉ đạo của tỉnh nhà trong thời gian qua, bảo tồn những giá trị văn hoá truyền thống…Trong quản lý, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường, các đề tài, dự án được triển khai tương đối hiệu quả đã cung cấp các cơ sở khoa học cho việc quy hoạch, kế hoạch và hoạch định chính sách trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của tỉnh về công tác quản lý, khai thác sử dụng tài nguyên thiên nhiên một cách hợp lý và các giải pháp ngăn ngừa, khống chế ô nhiễm, cải thiện và bảo vệ môi trường. 

5. Công tác quản lý công nghệ và sở hữu trí tuệ thực sự góp phần
mở rộng sản xuất kinh doanh và hội nhập cho các doanh nghiệp:

Thực hiện thành công đề tài "Đánh giá hiện trạng công nghệ và xây dựng cơ sở dữ liệu năng lực công nghệ của doanh nghiệp tỉnh Đồng Nai" tại 723 doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh, đưa Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Đồng Nai trở thành điểm học tập và rút kinh nghiệm đầu tiên cho các tỉnh trên cả nước về công tác đánh giá hiện trạng công nghệ.

          Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ là một trong những nội dung quan trọng khi nước ta gia nhập WTO. Đến nay đã có 4/25 đơn đăng ký Sáng chế, 2/17 đơn đăng ký Giải pháp hữu ích, 201/282 đơn đăng ký Kiểu dáng công nghiệp và 987/1699 đơn đăng ký NHHH được cấp văn bằng bảo hộ;

Hỗ trợ các Hội nghề nghiệp đăng ký nhãn hiệu tập thể cho các sản phẩm truyền thống của tỉnh như sản phẩm Bưởi Biên Hòa (của Hội làm vườn huyện Vĩnh Cửu), sản phẩm gốm mỹ nghệ (của Hiệp hội Gốm mỹ nghệ tỉnh Đồng Nai);

6. Đẩy mạnh quản lý tiêu chuẩn-đo lường-chất lượng
vì một môi trường kinh doanh, buôn bán lành mạnh hơn:

Nhằm góp phần tạo nếp sống văn minh thương mại và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người tiêu dùng, Chi cục TC-ĐL-CL Đồng Nai đã triển khai thực hiện hoạt động các trạm cân đối chứng tại các chợ trên địa bàn tỉnh. Khởi đầu từ 07 trạm cân được bàn giao và lắp đặt tại các chợ. Đến nay, Chi cục đã bàn giao và lắp đặt 31 trạm cân cho các chợ. Từ đó đã góp phần không nhỏ vào việc chống mua bán gian lận.

Riêng trong công tác quản lý trạm bơm xăng dầu, cuối năm 2003, Chi cục đã tiến hành khảo sát tình trạng kỹ thuật các trụ bơm của các đơn vị kinh doanh xăng dầu trên địa bàn. Mục đích khảo sát nhằm nâng cấp, cải tạo hoặc thay mới các cột đo nhiên liệu do đã sử dụng lâu năm, không đạt tiêu chuẩn kỹ thuật và thực hiện duyệt mẫu đối với các cột đo chưa được duyệt mẫu. Toàn tỉnh hiện có khoảng 238 trạm xăng dầu với hơn 1.092 cột đo và 1.397 vòi bơm. Sau 2 năm triển khai khảo sát, đã có trên 93% số trạm xăng dầu trên địa bàn tỉnh được nâng cấp, cải tạo hoặc thay mới đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội.

7. Thông tin KHCN không ngừng được xây dựng và phát triển,
góp phần phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.

Hình thành mạng lưới thông tin KHCN từ Sở xuống các Điểm thông tin KHCN tại 56 xã/phường trên toàn tỉnh, dự kiến đến cuối năm 2010, mạng lưới sẽ kết nối hết 116 xã/phường còn lại của tỉnh;

Nguồn tin số hóa không ngừng được gia tăng để tích hợp trong các thư viện điện tử công nghệ nông thôn đặt tại các Điểm thông tin KHCN, như CSDL 100 nghìn câu hỏi-đáp KHCN; CSDL 21 giống cây ăn trái có lợi thế cạnh tranh và xuất khẩu; CSDL 200 câu hỏi –đáp về dịch hại trên cây trồng và cách sử dụng thuốc bảo vệ thực vật; CSDL 700 phim công nghệ nông thôn; CSDL 2000 phim khoa học; CSDL 150 chuyên gia tư vấn thông tin KHCN; CSDL 20.000 biểu ghi luận án tiến sĩ, thạc sĩ bảo vệ trong và ngoài nước, trong đó trên 6.500 luận án đã được số hóa;

Cổng thông tin điện tử (Portal) tỉnh Đồng Nai do Sở quản lý được duy trì và phát triển, tin tức được cập nhật mới hàng ngày, nhiều modul chuyên đề được phát triển, như Cải cách hành chính; Đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống; An ninh trật tự; Tư vấn pháp luật và đầu tư.

Cổng Thông tin Sở Khoa học và Công nghệ (http:// www.dost-dongnai.gov.vn) cung cấp nhiều thông tin về kết quả nghiên cứu KHCN mới nhất trên thế giới, đã trở thành nguồn thông tin cung cấp những kết quả, thành tựu nghiên cứu mới về KHCN cho nhiều trang tin điện tử khác;

Cùng với nguồn lực thông tin KHCN số hóa, các ấn phẩm giấy, như Bản tin Ứng dụng Khoa học phát hành mỗi tháng một kỳ với số lượng 5.000 bản/kỳ; Tập san Thông tin Khoa học và Công nghệ phát hành 2 tháng một kỳ với số lượng 1.000 bản/kỳ cũng đã ngày một nâng cấp về chất lượng, phục vụ công tác lãnh đạo KHCN, lực lượng nhà khoa học (Thạc sĩ, Tiến sĩ) của tỉnh và đông đảo các cơ quan, bạn đọc trong và ngoài tỉnh.

8. Hoạt động “ Chợ Công nghệ và Thiết bị (Techmart)” được đẩy mạnh:

Đặc biệt ở Đồng Nai, Techmart được tổ chức ở các địa bàn nông thôn với công nghệ thiết bị phục vụ sản xuất và đời sống người nông dân. Chơ Công nghệ và thiết bị đã trở thành một loại hình hoạt động KHCN có “thương hiệu” của Sở.

9. Hội thi Sáng tạo kỹ thuật tỉnh Đồng Nai không ngừng
phát hiện nhiều tiềm năng sáng tạo, nhiều giải pháp kỹ thuật mới.

     Hội thi Sáng tạo kỹ thuật tỉnh đã tổ chức thành công 12 lần hội thi, với tổng cộng 322 giải pháp kỹ thuật tham gia dự thi, trong đó có 205 giải pháp kỹ thuật đã đoạt giải. Phần lớn các giải pháp được hình thành từ thực tế lao động, sản xuất, học tập, trong đó nhiều giải pháp được áp dụng, nhân rộng đem lại giá trị kinh tế lớn cho xã hội;

Cùng với Hội thi sáng tạo kỹ thuật, phong trào Phát huy sáng kiến sáng tạo trong lao động và học tập (tức Chương trình 6, thuộc phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa của tỉnh), Sở còn phát triển các hội thi khác, như Hội thi lãnh đạo xã/phường giỏi công nghệ thông tin; Hội thi doanh nghiệp giỏi ứng dụng công nghệ thông tin. Các phong trào hội thi là nguồn kích thích hoạt động KHCN phát triển tích cực.

 
10. Thực hiện có hiệu quả các chương trình hỗ trợ hội nhập kinh tế thế giới.

     Chương trình hỗ trợ áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo TCVN ISO 9001:2000 vào hoạt động của các cơ quan Nhà nước; Chương trình hỗ trợ xây dựng và áp dụng các hệ thống quản lý tiên tiến cho các tổ chức, doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Đồng Nai; Tổ chức thực hiện Chương trình hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ áp dụng thực hiện các công cụ năng suất chất lượng; Chương trình phát triển tiêu chuẩn hóa; Quản lý đo lường; Chương trình hỗ trợ thông tin thực hiện Hiệp định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại tỉnh Đồng Nai (TBT); Chương trình Giải thưởng chất lượng Việt Nam.

11. Thanh tra chất lượng sản phẩm, hàng hóa
để đảm bảo chất lượng, an toàn cho người tiêu dùng.

Thanh tra Sở là đơn vị được thành lập theo Quyết định số 2294/2005/QĐ-UBND ngày 26/5/2005 của UBND tỉnh, có chức năng nhiệm vụ thanh kiểm tra KHCN, cụ thể như thanh kiểm tra về tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng, sở hữu công nghiệp của tất cả các chủng loại sản phẩm, hàng hóa lưu thông và các nội dung khác liên quan. Phần lớn các sản phẩm, hàng hóa thuộc các chủng loại phổ biến, như điện gia dụng, khí hóa lỏng, hóa mỹ phẩm, vật liệu xây dựng, đồ chơi trẻ em, mũ bảo hiểm, thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y...

Công tác thanh tra KHCN trong những năm gần đây gia tăng theo phát triển kinh tế - xã hội, như năm 2007, với 187 cơ sở được thanh kiểm tra, thì mức phạt đã lên đến 100 triệu đồng. Điều này cho thấy mức vi phạm các chuẩn về KHCN trong sản xuất là đáng kể và có xu hướng gia tăng vì lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường. 

CÁC TẶNG THƯỞNG CAO QÚY CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC; VÀ CÁC GIẢI THƯỞNG  CỦA CÁC CƠ QUAN TRONG NƯỚC VÀ QUỐC TẾ TRAO TẶNG.

Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, UBND tỉnh, Bộ Khoa học và Công nghệ, cùng với sự ủng hộ, phối hợp chặt chẽ của các ngành, doanh nghiệp, tổ chức khoa học - công nghệ, các chuyên gia, nhà khoa học, đặc biệt sự nỗ lực phấn đấu không ngừng của đội ngũ cán bộ, công chức cơ quan, Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Đồng Nai đã liên tục trong 30 năm qua hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được Đảng và Nhà nước trao tặng nhiều phần thưởng cao quý:

- Huân chương Lao động hạng Ba, năm 1985;

- Huân chương Lao động hạng Nhì, năm 2000;

- Huân chương Lao động hạng Nhất , năm 2007;

- Cờ thi đua Chính phủ các năm liền: 2004; 2005; 2006; 2007.

- Bằng khen của Bộ Khoa học và Công nghệ về nhiều thành tích đạt được;

- Và nhiều năm liền được UBND tỉnh Đồng Nai tặng thưởng “Cờ thi đua”.

Trong những năm gần đây, Sở Khoa học và Công nghệ đã không ngừng phát triển các sản phẩm công nghệ thông tin đạt nhiều giải thưởng có giá trị trong và ngoài nước.

ĐỊNH HƯỚNG TƯƠNG LAI.

Trải qua chặng đường 30 năm xây dựng và phát triển, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo toàn điện của Lãnh đạo tỉnh, đặc biệt sự chỉ đạo sâu sát về chuyên môn của Bộ Khoa học và Công nghệ, Ban Khoa học và Kỹ thuật, Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật, Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Sở Khoa học và Công nghệ ngày nay đã tham mưu cho UBND tỉnh ban hành kịp thời các chủ trương, chính sách,  văn bản pháp luật, quy hoạch và kế hoạch về KHCN trong từng giai đoạn phục vụ tích cực vào sự phát triển kinh tế-xã hội tỉnh Đồng Nai nói riêng và cả nước nói chung.

Đến nay, đứng trước thời điểm kỷ niệm 30 năm thành lập cơ quan, Sở Khoa học và Công nghệ cảm thấy vui mừng khi nhìn thấy trụ sở cơ quan khang trang, hiện đại mới vừa được xây dựng xong; tự hào với đội ngũ cán bộ, công chức của cơ quan đủ lớn mạnh và trưởng thành, có thể đảm đương những nhiệm vụ KHCN, cũng như đủ tư cách, năng lực và phẩm chất gánh vác những nhiệm vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước giao phó, kế thừa lãnh đạo phát triển sự nghiệp khoa học và công nghệ.

Với đội ngũ, hạ tầng và kinh nghiệm hoạt động KHCN hiện có, Sở Khoa học và công nghệ trong thời gian tới sẽ tiếp tục thực hiện đồng bộ 4 giải pháp lớn: Đổi mới cơ chế quản lý; phát triển tiềm lực KHCN; xây dựng và phát triển thị trường KHCN; và đẩy mạnh hội nhập khu vực và thế giới về KHCN, trong đó tập trung trước mắt phối hợp với các ngành đẩy mạnh việc đầu tư xây dựng khu Trung tâm Nghiên cứu ứng dụng Công nghệ sinh học tỉnh Đồng Nai tại huyện Cẩm Mỹ, Trung tâm Đo kiểm tại huyện Nhơn Trạch và ưu tiên các chương trình, đề tài, dự án nghiên cứu KHCN phục vụ nông nghiệp, nông thôn nhằm đảm bảo tỉnh Đồng Nai phát triển bền vững./.
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây