Thứ 6 - 26/02/2016
Màu đỏ Màu xanh nước biển Màu vàng Màu xanh lá cây
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 8 năm 2024

(CTT-Đồng Nai) “Cục Thống kê Đồng Nai thông báo tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Đồng Nai tháng 8 năm 2024 như sau:
I. KINH TẾ
1. Sản xuất công nghiệp
Tháng 8, sản xuất công nghiệp trên địa bàn tiếp tục tăng trưởng và trong xu hướng phục hồi phát triển tích cực, nhiều Doanh nghiệp mở rộng sản xuất, đổi mới quy trình công nghệ sản xuất thích ứng với điều kiện thực tế, thị trường xuất khẩu thuận lợi, thị trường tiêu thụ sản phẩm trong nước khá ổn định. Dự ước chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 8/2024 tăng 10,66% so tháng 8/2023 và tăng 0,94% so tháng trước, trong đó: Khai khoáng giảm 0,82%; Công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 0,32%; Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước tăng 14,72% (đây là mức tăng cao nhất của ngành này từ đầu năm đến nay); Cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước tăng 0,73%; Tháng 8 có 24/28 ngành sản xuất tăng so tháng trước, một số ngành tăng khá như: Sản xuất chế biến thực phẩm tăng 0,50%; Sản xuất đồ uống tăng 0,92%; Dệt tăng 0,43%; Sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 0,88%; Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 1,28%; Sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 0,48%; Sản xuất kim loại tăng 1,69%; Sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 1,44%; Sản xuất phương tiện vận tải khác tăng 1,33%; Sản xuất giường, tủ, bàn ghế tăng 1,42%,… đặc biệt ngành Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước tăng 14,72% so tháng trước, đây là tháng có mức tăng cao nhất từ đầu năm đến nay sau nhiều tháng giảm hoặc tăng thấp; có 4 ngành sản xuất giảm nhưng giảm không đáng kể.
Dự ước chỉ số sản xuất công nghiệp 8 tháng năm 2024 tăng 7,37% so cùng kỳ; mức tăng 8 tháng năm nay cao hơn nhiều so với 8 tháng năm 2023 (8 tháng năm 2023 tăng 4,02%) nhưng vẫn thấp hơn so với 7,79% của 8 tháng năm 2022, trong đó ngành khai khoáng tăng 4,83%; Công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 7,71%; Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước tăng 0,48%; Cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước tăng 8,49%. Nguyên nhân chỉ số sản xuất 8 tháng năm 2024 tăng khá là do năm nay kinh tế thế giới từng bước phục hồi, nhu cầu tiêu dùng hàng hóa trên thế giời tăng, đơn hàng của các doanh nghiệp tăng, đặc biệt là nhóm ngành công nghiệp chủ lực, công nghiệp chế biến, chế tạo phục hội rõ nét, có mức tăng trưởng nhanh; nhóm ngành hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải có mức tăng đều qua thời gian; nhóm ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước, điều hoà không khí lũy kế 8 tháng đã có mức tăng so cùng kỳ, do tháng 8 tăng cao. Xét ngành kinh tế cấp 2 tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong 8 tháng đầu năm 2024 có 28/28 ngành có mức sản xuất tăng, đây là lần đầu tiên trong suốt 3 năm trở lại đây không có ngành nào có mức tăng trưởng âm.

Một số ngành công nghiệp chủ lực có chỉ số sản xuất 8 tháng đầu năm đạt mức tăng khá so cùng kỳ như: Sản xuất chế biến thực phẩm 5,68%; Sản xuất sản phẩm thuốc lá tăng 8,52%; Dệt tăng 5,93%; May mặc tăng 7,66%; Sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 6,78%; Sản xuất hóa chất tăng 5,75%; Sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 13,97; Sản xuất giường,tủ, bàn, ghế tăng 7,44% v.v… một số ngành sản xuất khác như: Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 10,73%; Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 9,89%; Sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 8,46%; Sản xuất thiết bị điện tăng 10,07%; Sản xuất máy móc thiết bị chưa phân vào đâu tăng 9,01%; Sản xuất phương tiện vận tải khác tăng 10,21%…
- Chỉ số sản phẩm công nghiệp: Dự ước tháng 8 năm 2024 có 17/24 sản phẩm chủ yếu tăng so với tháng cùng kỳ năm trước như: Cà phê các loại đạt 38,6 ngàn tấn, tăng 1,05%; Thuốc lá sợi đạt 1.451 tấn, tăng 0,90%; Sợi các loại đạt 189,7 nghìn tấn, tăng 0,64%; Giầy dép các loại đạt 38,4 triệu đôi, tăng 0,26%; Săm, lốp các loại đạt 8,7 triệu cái, tăng 2,35%; Bao bì các loại đạt 20,8 nghìn tấn, tăng 0,97%; Gường, tủ, bàn ghế đạt 944,5 nghìn chiếc, tăng 0,83%,... Lũy kế 8 tháng đầu năm 2024 có 21/24 sản phẩm công nghiệp chủ yếu có sản lượng tăng so cùng kỳ đó là: Đá xây dựng các loại 12.917,2 nghìn m3, tăng 4,81%; Bột ngọt đạt 190,1 nghìn tấn, tăng 6,86%; Thuốc lá sợi đạt 10.813 tấn, tăng 7,84%; Sợi các loại 1.446,5 ngàn tấn, tăng 5,10%; Vải các loại 392,2 triệu m2, tăng 1,32%; Quần áo may sẵn đạt 174,7 triệu cái, tăng 8,51%; Giầy dép các loại 292 triệu đôi, tăng 2,31%; Sản phẩm kim loại 316,9 ngàn tấn, tăng 10,42%; Giường, tủ, bàn, ghế đạt 7.412,9 nghìn chiếc, tăng 13,08%,… Nguyên nhân 8 tháng đầu năm 2024 hầu hết các ngành sản xuất đều tăng là do đơn hàng sản xuất tăng, thị trường xuất khẩu khá thuận lợi, giá xuất khẩu tăng so cùng kỳ, thị trường trong nước đang có xu hướng tăng.
- Chỉ số tiêu thụ: Chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong tháng 8/2024 giảm 5,76% so với tháng 7/2024 và tăng 3,42% so với tháng cùng kỳ. Lũy kế 8 tháng đầu năm chỉ số tiêu thụ tăng 8,32% so cùng kỳ, trong đó một số ngành chỉ số tiêu thụ 8 tháng tăng so cùng kỳ đó là: Sản xuất trang phục tăng 4,91%; Sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 6,06%; Sản xuất giấy và SP từ giấy tăng 12,12%; Sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu tăng 17,68%; Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 19,18%; Sản xuất thiết bị điện tăng 7,1%; Sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 11,4%; Sản xuất phương tiện vận tải khác tăng 22,15%,... Nguyên nhân khả năng chỉ số tiêu thụ 8 tháng năm 2024 tăng khá là do từ đầu năm tới nay các doanh nghiệp đã sản xuất và đáp ứng đảm bảo theo đơn hàng, khách hàng yêu cầu cung ứng kịp thời nên các doanh nghiệp tập trung chủ yếu ở các đơn hàng xuất khẩu.
- Chỉ số tồn kho: Toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 8/2024 dự ước tăng 21,22% so với tháng 7/2024 và giảm 38,05% so tháng cùng kỳ năm trước. Kết quả này cho thấy khả năng đòn bẩy từ các chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ đã phát huy tác dụng, tác động rất tích cực đến khối lượng sản phẩm hàng hóa, sản phẩm sản xuất ra tiêu thụ tốt lượng hàng tồn kho giảm dần, vòng quay sản phẩm tăng nhanh, đây là yếu tố thuận lợi và tích cực giúp doanh nghiệp phát triển vượt qua thời gian khó khăn do ảnh hưởng của khủng hoảng chính trị trên thế giới.
Một số ngành chỉ số tồn kho tăng cao so tháng trước như: Sản xuất chế biến thực phẩm (+31%); Dệt (+21,9%); Sản xuất trang phục (+ 9,91%); Sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy (+18,09%); Sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất (16,34%); Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic (+14,23%), Sản xuất kim loại (+24,89%); Sản xuất thiết bị điện (+23,17%)…

2. Sản xuất Nông - Lâm nghiệp và Thủy sản
a) Nông nghiệp
Cây hàng năm: Tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm ước đến 20/8/2024 là 116.298,9 ha, giảm 171,17 ha (-0,15%) so với cùng kỳ, diện tích tăng, giảm một số cây chủ yếu như sau:
Diện tích Lúa 8 tháng đạt 42.720,8 ha, tăng 145,05%, trong đó vụ Đông Xuân là 15.506,1 ha, tăng 1,53%; vụ Hè Thu là 18.787 ha, giảm 0,26%; ước vụ Mùa là 8.427,75 ha, giảm 0,47% so cùng kỳ. Diện tích cây Bắp là 27.191,2 ha, tăng 1,08%, nguyên nhân diện bắp tăng là do giá bắp bán làm thức ăn chăn nuôi cao và ổn định nên người dân tập trung gieo trồng trên những thửa rộng chủ động được nguồn nước và mở rộng thêm những diện tích của các loại cây hàng năm khác cho năng suất kém, do đó diện tích bắp tăng so cùng kỳ. Diện tích Khoai lang đạt 174,54 ha, tăng 1,37%; Mía đạt 3.147,4 ha, tăng 3,47%, nguyên nhân tăng chủ yếu là do chuyển đổi từ cây Sắn qua trồng Mía; Đậu tương đạt 270,23 ha, tăng 3,81% so cùng kỳ; Diện tích Lạc đạt 892 ha, giảm 0,01%; Rau các loại là 15.843,9 ha, tăng 0,13%; Diện tích đậu các loại đạt 3.166,6 ha, tăng 1,12% so cùng kỳ, nguyên nhân các loại cây này tăng là do thị trường tiêu thụ ổn định giá bán cao, dễ chăm sóc, hơn nữa thời tiết trong vụ thuận lợi cho việc gieo trồng và phát triển.
Dự ước năng suất một số cây trồng chính tăng, giảm so cùng kỳ như sau: Năng suất lúa đạt 64,48 tạ/ha, tăng 0,64%; Bắp: 80,75 tạ/ha, tăng 0,39%; Khoai lang: 112,62 tạ/ha, tăng 0,14%; Mía: 701,22 tăng 0,48%; Đậu tương: 16,42 tạ/ha, tăng 0,55%; Lạc: 23,61 tạ/ha, tăng 1,72%; Rau các loại: 175,35 tạ/ha, tăng 0,69%; Năng suất đậu/đỗ các loại: 14,38 tạ/ha, tăng 2,2%, năng suất của một số cây trồng năm nay tăng là do ngành nông nghiệp đã phối hợp chặt chẽ với các địa phương trong công tác tuyên truyền, vận động người dân xuống giống đúng vụ, chủ động nguồn nước tưới, thực hiện tốt khâu chăm bón, phòng chống dịch bệnh nên không xảy ra thiệt hại.
Dự ước sản lượng thu hoạch 8 tháng đầu năm 2024 so với cùng kỳ như sau: Sản lượng lúa: 201.142 tấn, tăng 0,27%; Bắp: 162.671 tấn, giảm 1,01%; Khoai lang: 1.455,6 tấn, tăng 12,7%; Sắn: 259.367 tấn, tăng 0,58%; Mía: 115.744 tấn, tăng 5,18%; Đậu tương: 342,3 tấn, giảm 0,63%; Lạc: 1.388,7 tấn, giảm 4,01%; Sản lượng rau các loại: 165.838 tấn, tăng 0,38%; Sản lượng đậu/đỗ các loại: 2.743,73 tấn, tăng 0,66% so cùng kỳ.
Cây lâu năm: Tổng diện tích cây lâu năm hiện có là 171.463,3 ha, tăng 1.860,1 ha (+1,11%) so cùng kỳ. Trong đó: tổng diện cây ăn quả là 78.292,6 ha, tăng 326 ha (+0,42%) so cùng kỳ và chiếm 45,66% tổng diện tích; Diện tích cây công nghiệp lâu năm là 93.170,7 ha, tăng 1.534 ha (+1,67%). Tổng diện tích cây lâu năm tăng là do nông dân chuyển đổi một số diện tích cây hàng năm kém hiệu quả sang trồng cây ăn quả như Xoài, Chuối, Mít, Sầu Riêng đang có xu hướng tăng mạnh do đạt hiệu quả kinh tế cao.
Sản lượng một số cây lâu năm chủ yếu thu hoạch trong 8 tháng năm 2024 so cùng kỳ như sau: Xoài đạt 79.179,7 tấn, tăng 2%; Chuối đạt 186.721 tấn, tăng 19,47%; Thanh Long đạt 8.460,1 tấn, tăng 2,66%; Bưởi đạt 55.445 tấn, tăng 4,48%; Chôm Chôm đạt 152.901 tấn, tăng 0,41%....
Chăn nuôi: Tổng đàn gia súc có đến thời điểm tháng 8/2024 là 2.199.897 con, giảm 10,81% so cùng kỳ. Trong đó: Trâu đạt 3.978 con, tăng 0,15%; Bò đạt 111.237 con, tăng 0,65%; Số lượng đàn trâu, bò tăng là do sản phẩm thịt gia súc phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng xã hội cao, nên các hộ chăn nuôi trâu, bò đầu tư thêm con giống để nuôi, bên cạnh đó người dân cũng mạnh dạn đầu tư cải tạo đàn bò theo hướng thịt tăng thu nhập; Đàn lợn đạt 2.084,68 nghìn con (không tính heo con chưa tách mẹ), giảm 11,36% so cùng kỳ.
Sản lượng thịt gia súc 8 tháng tăng khá so cùng kỳ, dự ước thịt trâu đạt 201,3 tấn, tăng 6,65%; thịt bò đạt 3.611,4 tấn, tăng 7,07%; thịt lợn đạt 365.530,6 tấn, tăng 4,89% so cùng kỳ.
Tổng đàn gia cầm có đến thời điểm tháng 8/2024 là 24.826,82 nghìn con, giảm 1,89% so cùng kỳ, trong đó gà đạt 21.709,83 nghìn con, giảm 1,79%.
b) Lâm nghiệp
Tháng 8/2024 đang vào mùa mưa nên các đơn vị lâm nghiệp tập trung vào trồng lại diện tích rừng đã thu hoạch. Dự ước diện tích rừng trồng mới trong tháng 8/2024 đạt 768,56 ha, tăng 12,56 ha (+1,66%) so với tháng cùng kỳ. Luỹ kế 8 tháng diện tích rừng trồng mới ước đạt được 28.551,6 ha, tăng 38,98 ha (+1,13%) so với cùng kỳ. Trong tháng 8/2024 sản lượng khai thác gỗ ước đạt 28.551,6 m3, tăng 3,11% so với tháng cùng kỳ. Lũy kế 8 tháng, tổng số gỗ khai thác đạt được 202.458,5 m3, tăng 2,53% so với cùng kỳ. Sản lượng củi khai thác trong tháng 8/2024 ước đạt 518 ste, ước 8 tháng đạt 2.363,2 ste, giảm 4,46% so với cùng kỳ.
c) Thủy sản: Dự ước sản lượng thủy sản trong tháng 8/2024 đạt 8.094,36 tấn, tăng 3,99% so với tháng cùng kỳ. Lũy kế 8 tháng đạt 55.744,25 tấn, tăng 4,09% so cùng kỳ. Trong đó: Sản lượng khai thác đạt 5.244,95 tấn, giảm 0,26% (sản lượng cá ước đạt 4.547,52 tấn, giảm 0,19%; tôm đạt 338,73 tấn, giảm 1,12%; thủy sản khác đạt 358,7 tấn, giảm 0,38%). Sản lượng thuỷ sản nuôi trồng 8 tháng đạt 50.499,3 tấn, tăng 4,57% so cùng kỳ (sản lượng cá ước đạt 42.777 tấn, tăng 4,66%; tôm đạt 6.595,1 tấn, tăng 4,31%; thủy sản khác đạt 1.127,2 tấn, tăng 2,49%). Nguyên nhân sản lượng thủy sản tăng là do nhu cầu thị trường tiêu thụ xã hội, sản phẩm thủy sản được người tiêu dùng sử dụng nhiều; hơn nữa người nuôi thủy sản tập trung vào nuôi thâm canh và bán thâm canh với các đối tượng chủ lực, như nước ngọt gồm (cá rô đồng, rô phi, diêu hồng, cá lóc, tôm càng xanh); nước lợ (tôm thẻ và tôm sú); đồng thời kiểm soát tỷ lệ phần trăm cho ăn đúng qui trình, kỹ thuật, giúp duy trì tỷ lệ sống cao.
 
3. Tình hình thực hiện vốn đầu tư nguồn vốn ngân sách Nhà nước: Dự ước thực hiện vốn đầu tư phát triển bằng nguồn vốn ngân sách Nhà Nước do địa phương quản lý tháng 8 năm 2024 đạt 1.292,3 tỷ đồng, tăng 14,58% so với tháng 7 năm 2024. Ước 8 tháng đầu năm 2024 thực hiện 7.250,5 tỷ đồng; tăng 18,72% so cùng kỳ và bằng 48,26% KH năm 2024.

4. Thu hút đầu tư và đăng ký doanh nghiệp
Từ đầu năm đến ngày 20/8/2024, thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) trên địa bàn tỉnh đạt khoảng 1.089,02 triệu USD, tăng 34,47% so cùng kỳ, trong đó: cấp mới 61 dự án với tổng vốn đăng ký 640,05 triệu USD, tăng gấp hơn 2,6 lần so cùng kỳ và 74 dự án tăng vốn với tổng vốn bổ sung 448,97 triệu USD, giảm 21,14% so cùng kỳ.
Từ đầu năm 2024 đến ngày 20/8/2024, tổng vốn đầu tư trong nước đăng ký cấp giấy chứng nhận đầu tư, chủ trương đầu tư và điều chỉnh tăng vốn khoảng 42.114,7 tỷ đồng, gấp gần 5 lần so với cùng kỳ. Trong đó: cấp mới 07 dự án và 02 dự án được cấp quyết định chấp thuận nhà đầu tư thông qua đấu thầu, với tổng vốn đăng ký là 35.175,75 tỷ đồng, tăng hơn 5,9 lần so cùng kỳ; có 15 dự án tăng vốn với số vốn đăng ký bổ sung là 6.938,92 tỷ đồng, gấp hơn 2,7 lần so cùng kỳ năm 2023.
Từ đầu năm đến ngày 15/8/2024, tổng vốn đăng ký thành lập mới doanh nghiệp và bổ sung tăng vốn là 47.947 tỷ đồng, tăng 11,43% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó: Có 3.024 doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký 20.613 tỷ đồng, tăng 9,45%; Có 775 lượt doanh nghiệp đăng ký bổ sung với số vốn là 27.334 tỷ đồng, tăng 18,49% so cùng kỳ. Ngoài ra có 1.204 Chi nhánh, địa điểm kinh doanh và văn phòng đại diện đăng ký hoạt động trên địa bàn tỉnh, giảm 6,9% so với cùng kỳ năm 2023. Nhìn chung 8 tháng đầu năm do kinh tế đang phục hồi dần, số doanh nghiệp và số vốn đăng ký thành lập mới tăng cao.
Từ đầu năm đến ngày 15/08/2024, có 397 doanh nghiệp giải thể, tăng 12,1% so với cùng kỳ; có 468 Chi nhánh, địa điểm kinh doanh và văn phòng đại diện chấm dứt hoạt động, tăng 3%; và 1.625 doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh, tăng 28,4%. Lý do giải thể và chấm dứt hoạt động và tạm ngừng kinh doanh chủ yếu là do kinh doanh không hiệu quả. Các doanh nghiệp này chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa, thuộc khu vực kinh tế tư nhân.

5. Thương mại du lịch, giá cả, xuất nhập khẩu và vận tải
5.1. Thương mại dịch vụ
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 8 năm 2024 ước đạt 24.944,5 tỷ đồng, tăng 2,37% so tháng trước và tăng 13,67% so tháng cùng kỳ năm trước. Lũy kế 8 tháng ước đạt 193.270,43 tỷ đồng, tăng 12,6% so cùng kỳ. Trong đó: Kinh tế nhà nước ước đạt 11.058,13 tỷ đồng, tăng 12,24%; kinh tế ngoài nhà nước ước đạt 177.437,5 tỷ đồng, chiếm 91,8%; tăng 12,55% so với cùng kỳ; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 4.774,8 tỷ đồng, tăng 15,41% so cùng kỳ. Xét theo ngành hoạt động như sau:
a) Bán lẻ hàng hóa
Doanh thu bán lẻ hàng hóa tháng 8 ước đạt 17.759,3 tỷ đồng, tăng 2,85% so với tháng trước. Lũy kế 8 tháng doanh thu bán lẻ hàng hóa ước đạt 137.788,8 tỷ đồng, tăng 11,17% so với cùng kỳ năm trước, trong đó các nhóm hàng có mức tăng khá so cùng kỳ là: Hàng lương thực tăng 6,39%, hàng may mặc tăng 11,92%, đồ dùng, dụng cụ, thiết bị gia đình tăng 6,03%; vật phẩm, văn hóa, giáo dục tăng 11,34%, gỗ và vật liệu xây dựng tăng 21,14%, xăng dầu các loại tăng 19,93%... Hoạt động bán lẻ hàng hóa trên địa bàn tỉnh diễn biến theo xu hướng thuận lợi, phục vụ nhu cầu tiêu dùng của dân cư và các ngành sản xuất kinh doanh, ngành Công Thương tỉnh tổ chức nhiều chương trình kết nối cung cầu trong nước, đồng thời theo dõi sát diễn biến giá cả các mặt hàng thiết yếu để có biện pháp điều tiết kịp thời, đảm bảo cân đối cung cầu, lưu thông hàng hóa và bình ổn thị trường.
b) Lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành
Dự ước doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống tháng 8 ước đạt 2.730,8 tỷ đồng, tăng 1,61% so với tháng trước và tăng 21,4% so cùng tháng năm trước. Lũy kế 8 tháng doanh thu lưu trú, ăn uống ước đạt 21.111,3 tỷ đồng, tăng 20,39% so cùng kỳ, trong đó: doanh thu lưu trú tăng 23,05%; doanh thu dịch vụ ăn uống tăng 20,36%.
Doanh thu du lịch lữ hành tháng 8 ước đạt 8,5 tỷ đồng, tăng 0,98% so với tháng trước và tăng 35,24% so cùng tháng năm trước. Lũy kế 8 tháng ước đạt 63,3 tỷ đồng, tăng 28,98% so cùng kỳ.
c) Hoạt động dịch vụ
Doanh thu dịch vụ tháng 8 năm 2024 ước đạt 4.445,8 tỷ đồng, tăng 0,95% so với tháng trước và tăng 16,6% so với tháng cùng kỳ. Lũy kế 8 tháng ước đạt 34.307,1 tỷ đồng, tăng 13,95% so cùng kỳ. Một số ngành kinh doanh dịch vụ tăng so với cùng kỳ như: Dịch vụ hành chính và hỗ trợ tăng 9,69%; dịch vụ Giáo dục và Đào tạo tăng 7%; dịch vụ y tế và hoạt động trợ giúp xã hội tăng 20,42%; dịch vụ nghệ thuật, vui chơi giải trí tăng 11,53%.
5.2. Giá cả thị trường
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 8 giảm 0,23% so với tháng trước; so với cùng tháng năm trước tăng 3,05%; Bình quân 8 tháng năm 2024, CPI tăng 2,95% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân chủ yếu khiến chỉ số giá tiêu dùng tháng 8 giảm so tháng trước do giá hàng hóa một số nhóm trong tháng giảm, như: Giao thông; nhà ở chất đốt và vật liệu xây dựng, may mặc mũ nón; văn hóa, giải trí và du lịch giáo dục giảm so tháng trước. Diễn biến giá cả một số nhóm hàng chính như sau:
So với tháng trước, CPI tháng 8/2024 giảm 0,23% (khu vực thành thị giảm 0,13%; khu vực nông thôn giảm 0,34%). Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng chính, có 4 nhóm hàng giảm giá và 6 nhóm hàng tăng giá.
Trong 4 nhóm hàng hóa có chỉ số giá giảm so tháng trước đó là:
- Giao thông (-2,4%) đây là nhóm có chỉ số giá giảm nhiều nhất trong tháng, làm giảm mức tăng chung của CPI là 0,24%. Mặc dù trong tháng các mặt hàng xăng, dầu có điều chỉnh tăng tuy nhiên tính theo giá bình quân thì các mặt hàng này vẫn giảm so với tháng trước, cụ thể xăng giảm 5,8%; dầu Diezel giảm 6,95% làm cho nhóm nhiên liệu giảm 5,27%; dịch vụ giao thông công cộng tăng 1,9% so với tháng trước nguyên nhân là do giá dịch vụ vận tải hành khách bằng đường hàng không tăng 10,59%; dịch vụ vận tải hành khách bằng đường sắt giảm 4,09%...
- Nhà ở điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng(-0,42%), làm giảm mức tăng của CPI trong tháng là -0,04%. Nguyên nhân thời tiết vào mùa mưa nên nhu cầu sử dụng điện, nước giảm so với tháng trước; làm cho giá điện bình quân giảm 2,77%; giá nước bình quân giảm 0,24% so với tháng trước; giá dầu hoả bình quân giảm 5,39% so với tháng trước do ảnh hưởng của giá thế giới. Giá mặt hàng gas tăng nhẹ 0,69% so với tháng trước.
- May mặc, mũ nón, giày dép (-0,03%): Do học sinh chuẩn bị bước vào năm học mới để tăng sức mua và kích cầu tiêu dùng nhiều cửa hàng, siêu thị đã có các chương trình khuyến mãi, giảm giá để thu hút phụ huynh mua sắm trong đó giá các mặt hàng quần áo may sẵn giảm 0,06%; giá các mặt hàng giày dép, dịch vụ may đồ tương đối ổn định.
Văn hóa, giải trí và du lịch (-0,06%): Chủ yếu do chỉ số giá nhóm du lịch trọn gói giảm. Cụ thể tháng này các công ty du lịch giảm giá tour để kích cầu người dân đi du lịch mùa thấp điểm nên giá một số tour đi du lịch trong nước và du lịch nước ngoài giảm giá.
+ Các nhóm còn lại có mức tăng thấp từ 0,03 – 0,7% trong đó tăng cáo nhất là nhóm giáo dục tăng 0,7% do chuẩn bị bước vào năm học mới nên các mặt hàng sách, vở, dụng cụ học tập và dịch vụ giáo dục tăng giá. Riêng nhóm bưu chính viễn thông giá ổn định so tháng trước.
So với cùng tháng năm trước, CPI tháng 8/2024 tăng 3,05% so với tháng 8/2023. Trong 11 nhóm hàng tiêu dùng chính có 9 nhóm tăng giá, trong đó tăng cao nhất là nhóm Thuốc và dịch vụ y tế tăng 8,98%; tăng thấp nhất nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,29%; 01 nhóm giảm là giao thông giảm 2,01%. Riêng bưu chính viễn thông vẫn ổn định không có biến động so với cùng kỳ.
Chỉ số giá bình quân 8 tháng năm 2024 so bình quân cùng kỳ, tăng 2,95%. Trong 10 nhóm hàng hoá tăng giá, tăng cao nhất nhóm Thuốc và dịch vụ y tế (+9,05%); Đồ dùng và dịch vụ khác (+8,54%); Nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng (+3,47%); Hàng ăn và dịch vụ ăn uống (+2,92%); Giao thông (+2,89%); Giáo dục (+1,99%); Thiết bị và đồ dùng gia đình (+1,45%); Đồ uống và thuốc lá (+0,88%); Văn hoá giả trí và du lịch (+0,46%). Riêng bưu chính viễn thông giảm 0,16%;
- Giá vàng tháng 8 tăng 0,8% so với tháng trước; so với cùng tháng năm trước tăng 36,2%; so với tháng 12/2023 tăng 24,7%. Bình quân 8 tháng tăng 28,56% so với cùng kỳ. Có thể nói năm nay là năm giá vàng biến động mạnh nhất, mức tăng rất cao so cùng kỳ.
- Chỉ số giá Đô la Mỹ tháng 8 giảm 0,88% so tháng trước; so với cùng tháng năm trước tăng 5,83%; so với tháng 12 năm trước tăng 3,12%. Bình quân 8 tháng so cùng kỳ tăng 6,5%.
5.3. Xuất, nhập khẩu hàng hóa
Hoạt động xuất, nhập khẩu tháng 8 tiếp tục khởi sắc và đạt được những kết quả tích cực, do sự phục hồi của thị trường thế giới, đơn hàng xuất khẩu các doanh nghiệp tăng, các doanh nghiệp chủ động tìm kiếm đơn hàng, nắm bắt tín hiệu thị trường, bên cạnh đó đơn hàng xuất khẩu của đối tác thương mại lớn như Mỹ, châu Âu và Trung Quốc tăng; mặt khác giá xuất khẩu ở hầu hết các mặt hàng xuất khẩu tăng, đặc biệt là giá hạt điều, cà phê, hạt tiêu tăng cao đã góp phần tác động đến kim ngạch xuất khẩu tháng 8 tăng so cùng kỳ.
Ước kim ngạch xuất khẩu tháng 8 đạt 2.191,5 triệu USD, tăng 2,56% so với tháng trước và tăng 7,02% so tháng cùng kỳ. So với tháng trước hầu hết các nhóm hàng xuất khẩu đều tăng như: Hạt điều nhân (+1,62%); cà phê (+1,97%); cao su (+2,4%); Sản phẩm gỗ (+3,25%); Hàng dệt may (+3,61%); Giày dép các loại (+2,86%); Máy vi tính (+1,48%); Xơ, sợi (+3,58%); máy móc thiết bị và dụng cụ phụ tùng (+0,94%) …
Tính chung 8 tháng kim ngạch xuất khẩu ước đạt 15.572,86 triệu USD, tăng 8,6% so cùng kỳ. Trong đó: kinh tế nhà nước tăng 3,49%; kinh tế ngoài nhà nước tăng 6,72%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng 9,39%. Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu 8 tháng tăng khá so cùng kỳ như: Hạt điều nhân (+47,18%); cà phê (+47,83%); Sản phẩm gỗ (+15,29%); Hàng dệt may (+4,49%); Giày dép các loại (+3,2%); Máy vi tính (+13,49%); Xơ, sợi (+6,04%); máy móc thiết bị và dụng cụ phụ tùng (+6,28%)…
Thị trường xuất khẩu 8 tháng tập trung chủ yếu ở các nước: Hoa Kỳ đạt 4.903,2 triệu USD, chiếm 31,4%; Nhật Bản đạt 1.493,8 triệu USD, chiếm 9,59%; Trung Quốc đạt 1.423,3 triệu USD, chiếm 9,14%; Hàn Quốc ước đạt 858,5 triệu USD, chiếm 5,5% ...
Kim ngạch nhập khẩu tháng 8 năm 2024 ước đạt 1.647,7 triệu USD, tăng 1,98% so tháng trước và tăng 10,87% so tháng cùng kỳ; lũy kế 8 tháng ước đạt 11.327 triệu USD, tăng 8,71% so cùng kỳ. Kim ngạch nhập khẩu 8 tháng tăng khá do sản xuất và tiêu thụ trong nước tăng, nhiều doanh nghiệp ký được đơn hàng sản xuất mới, nên đẩy mạnh nhập khẩu nguyên liệu để phục vụ sản xuất. Một số mặt hàng nhập khẩu chủ yếu 8 tháng tăng so cùng kỳ như: Chất dẻo nguyên liệu tăng 11,31%; Cao su tăng 14,02%; Gỗ và sản phẩm từ gỗ tăng 21,77%; Xơ, sợi dệt các loại tăng 19,83%; Vải các loại tăng 12,44%; Nguyên phụ liệu dệt, may, da giày tăng 21,78%; Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện tăng 33,74%...
Về thị trường nhập khẩu hàng hóa, Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của tỉnh, ước 8 tháng đạt 3.505,2 triệu USD, chiếm 30,95%; Hàn Quốc ước đạt 1.518,3 triệu USD, chiếm 13,4%; Nhật Bản ước đạt 742,7 triệu USD, chiếm 6,56%; Hoa Kỳ đạt 638,6 triệu USD, chiếm 5,64%...
Tính chung 8 tháng, xuất siêu trên địa bàn tỉnh ước đạt 4.245,8 triệu USD. Bình quân mỗi tháng xuất siêu khoảng 530 triệu USD.
5.4. Giao thông vận tải
Doanh thu vận tải, dịch vụ kho bãi, hỗ trợ vận tải tháng 8 năm 2024 ước đạt 3.181,3 tỷ đồng, tăng 1,69% so tháng trước và tăng 16,28% so cùng tháng năm trước. Tính chung 8 tháng ước đạt 25.276,6 tỷ đồng, tăng 15,68% so cùng kỳ. Cụ thể:
+ Doanh thu vận tải hành khách tháng 8 ước đạt 407,6 tỷ đồng, tăng 1,88% so tháng trước và tăng 20,89% so cùng tháng năm trước. Luỹ kế 8 tháng ước đạt 3.288,3 tỷ đồng, tăng 17,3% so cùng kỳ. Khối lượng vận chuyển hành khách trong tháng 8 ước đạt hơn 6,9 triệu lượt khách, tăng 1,61% so tháng trước và tăng 13,83% so với cùng kỳ. Lũy kế 8 tháng vận chuyển hành khách ước đạt 57,3 triệu lượt khách, tăng 11,19% so cùng kỳ. Luân chuyển hành khách tháng 8 ước đạt 418,3 triệu HK.km tăng 1,57% so tháng trước và tăng 15,78% so với cùng kỳ, lũy kế 8 tháng ước đạt 3.408 triệu HK.km tăng 11,65% so với cùng kỳ.
+ Doanh thu vận tải hàng hoá tháng 8 ước đạt 1.833 tỷ đồng, tăng 1,67% so tháng trước và tăng 16,84% so cùng tháng năm trước. Luỹ kế 8 tháng doanh thu vận tải hàng hoá ước đạt 14.523,7 tỷ đồng, tăng 16,57% so cùng kỳ. Khối lượng vận tải hàng hóa tháng 8 ước đạt 7,9 triệu tấn, tăng 1,55% so với tháng trước và tăng 14,61% so cùng kỳ. Lũy kế 8 tháng ước đạt 63,4 triệu tấn, tăng 13,65% so với cùng kỳ. Luân chuyển hàng hóa tháng 8 ước đạt 682,8 triệu tấn.km, tăng 1,5% so tháng trước và tăng 14,93% so cùng kỳ. Lũy kế 8 tháng ước đạt 5.438,5 triệu tấn.km, tăng 14,46% so với cùng kỳ.
+ Doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải tháng 8 ước đạt 940,7 tỷ đồng tăng 1,66% so với tháng trước và tăng 13,34% so với tháng cùng kỳ. Tính chung 8 tháng ước đạt 7.455,5 tỷ đồng, tăng 13,3% so cùng kỳ.

6. Tài chính – Ngân hàng
a) Tài chính
Tổng thu ngân sách nhà nước 8 tháng đầu năm 2024 ước đạt 29.559,52 tỷ đồng, tăng 14,11% so với cùng kỳ; đạt 52,63% dự toán năm 2024. Trong đó: Thu nội địa ước đạt 26.216,16 tỷ đồng, tăng 7,99% so cùng kỳ; Thu cân đối hoạt động xuất nhập khẩu (đã loại trừ hoàn thuế) ước đạt 3.299,62 tỷ đồng, tăng 2,2 lần so với cùng kỳ.
Tổng chi ngân sách Nhà nước 8 tháng đầu năm 2024 ước đạt 25.575,3 tỷ đồng, tăng 40,85% so với cùng kỳ. Trong đó: Chi đầu tư phát triển đạt 14.253,94 tỷ đồng, tăng 66,05% (chủ yếu chi đầu tư cho các dự án theo các lĩnh vực 13.754,15 tỷ đồng, tăng 96,11%); Chi thường xuyên đạt 11.210,56 tỷ đồng, tăng 17,15% so với cùng kỳ.
b) Hoạt động Ngân hàng
Tổng nguồn vốn huy động của các TCTD trên địa bàn ước đến 31/8/2024 đạt 333.160 tỷ đồng, tăng 3,83% so với cuối năm 2023. Bao gồm: Phát hành giấy tờ có giá ước đạt 2.870 tỷ đồng, tăng 8,51%; Tiền gửi ước đạt 330.290 tỷ đồng, tăng 3,79% (Trong đó: Tiền gửi bằng đồng Việt Nam ước đạt 310.625 tỷ đồng, tăng 3,48%; Tiền gửi bằng ngoại tệ ước đạt 19.665 tỷ đồng, tăng 8,93%).
Hoạt động huy động vốn trên địa bàn đang có những dấu hiệu tích cực về tăng trưởng, trong bối cảnh các TCTD bắt đầu tăng lãi suất huy động tiền gửi để thu hút nguồn vốn nhàn rỗi từ dân cư; cùng với đó, những tín hiệu khả quan về tình hình đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài và tình hình xuất nhập khẩu hàng hóa có sự cải thiện trong ngắn hạn cũng được đánh giá là nguyên nhân phục hồi của tiền gửi thanh toán và tiền gửi ngoại tệ.
Hoạt động tín dụng: Dự ước đến 31/8/2024 tổng dư nợ cấp tín dụng trên địa bàn ước đạt 392.274 tỷ đồng, tăng 7,9% so với cuối năm 2023 (nợ xấu ước chiếm 1,97% trên tổng dư nợ cho vay). Bao gồm: Giá trị các khoản đầu tư trái phiếu doanh nghiệp ước đạt 1.530 tỷ đồng, giảm 7,22%; Tổng dư nợ cho vay ước đạt 390.744 tỷ đồng, tăng 7,97% so với cuối năm (Trong đó: Dư nợ ngắn hạn ước đạt 244.620 tỷ đồng, tăng 11,45%; Dư nợ trung, dài hạn ước đạt 146.124 tỷ đồng, tăng 2,61%).

II. VĂN HÓA - XÃ HỘI
1. Tình hình đời sống dân cư
Tình hình sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh từ đầu năm đến nay đang từng bước phục hồi và tăng trưởng, các doanh nghiệp có thêm đơn hàng mới, thị trường xuất khẩu thuận lợi, do dó các doanh nghiệp tuyển thêm nhiều lao động để đảm bảo cho sản xuất theo đơn đặt hàng, giải quyết việc làm và nâng cao thu nhập của người lao động. Tình hình sản xuất nông nghiệp tương đối ổn định, thời tiết cơ bản thuận lợi, cây trồng vật nuôi sinh trưởng và phát triển tốt, giá bán sản phẩm nông nghiệp khá ổn định và tăng nhẹ, do đó thu nhập người dân tăng lên, đời sống được cải thiện hơn. Bên cạnh đó hoạt động thương mại, dịch vụ trên địa bàn phát triển, tổng mức bán lẻ hàng hóa tăng khá đáp ứng nhu cầu mua sắm của người dân; nhu cầu du lịch, vui chơi, giải trí tiếp tục tăng do vẫn đang trong thời gian nghỉ hè. Tình hình trật tự an toàn xã hội trong tháng ổn định, an ninh được đảm bảo, công tác chăm lo chế độ chính sách, giảm nghèo và an sinh xã hội được quan tâm thực hiện, góp phần ổn định và nâng cao đời sống dân cư trên địa bàn.

2. Văn hóa - Xã hội
Trong tháng, ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch triển khai các đơn vị tập trung tuyên truyền các nhiệm vụ chính trị như: Trang trí tuyên truyền cổ động trực quan kỷ niệm các ngày lễ, phục vụ các nhiệm vụ chính trị của đất nước, của tỉnh bằng nhiều hình thức như: Thực hiện bộ maket tuyên truyền; treo cờ Đảng, cờ Tổ quốc, cờ nội dung, cờ phướn, băng rôn; thay đổi nội dung pano hộp đèn, thay đổi nội dung pano cố định, thay đổi nội dung pano cụm (2m x 3m); đĩa CD, tranh cổ động... Tổ chức Hội thi Giai điệu tuổi hồng tỉnh Đồng Nai năm 2024 có hơn 500 em diễn viên của 10/11 đơn vị huyện, thành phố tham gia; Tổ chức Hội thi Giọng ca tài tử và cải lương tỉnh Đồng Nai năm 2024. Đồng thời biểu diễn nghệ thuật phục vụ các nhiệm vụ chính trị của tỉnh và nhu cầu giải trí, hưởng thụ văn hóa, nghệ thuật của nhân dân.
Hoạt động thể thao trong tháng tập trung tổ chức và tham gia các giải: Tổ chức Giải Vô địch các CLB Bóng đá Futsal tại Nhà thi đấu; Giải Vô địch trẻ quốc gia Cầu mây năm 2024. Hỗ trợ tổ chức Giải Bắn ná cao su thể thao tỉnh Đồng Nai lần 2 năm 2024 tại Sân Quần vợt mái che; hỗ trợ tổ chức Giải Vô địch Cầu lông thanh, thiếu niên nhi đồng toàn quốc năm 2024 tại Tp. Long Khánh; phối hợp với Liên đoàn Quần vợt tỉnh Đồng Nai tổ chức Giải Vô địch Quần vợt tỉnh Đồng Nai mở rộng năm 2024; Giải Vô địch và vô địch trẻ Vovinam tỉnh Đồng Nai năm 2024; Giải Vô địch Taekwondo tỉnh Đồng Nai năm 2024. Các Đội tuyển Đồng Nai tham gia các giải quốc tế và trong nước, đạt tổng cộng 262 Huy chương (50 HCV, 86 HCB, 126 HCĐ).
 
3. Y tế
Sốt xuất huyết: trong tháng ghi nhận 781 ca mắc, tăng 64,76% so với tháng trước và tăng 23,77% so với tháng cùng kỳ, không có ca tử vong; lũy kế 8 tháng ghi nhận 2.130 ca, giảm 12,78% so cùng kỳ, có 01 ca tử vong. Tay chân miệng: ghi nhận 603 ca mắc, giảm 24,44% so với tháng trước và giảm 72,93% so với tháng cùng kỳ; lũy kế 8 tháng ghi nhận 3.429 ca, giảm 22,44% so cùng kỳ, không ghi nhận ca tử vong. Sởi: ghi nhận 09 ca mắc, tăng 03 ca so với tháng trước; lũy kế 8 tháng ghi nhận 15 ca, tăng 15 ca so cùng kỳ. Ho gà: ghi nhận 04 ca mắc mới, giảm 01 ca so với tháng trước. Một số dịch bệnh khác như: Sốt rét, uốn ván, tả, thương hàn, cúm.... trong tháng không ghi nhận trường hợp mắc.
 
4. Giáo dục
Công tác Giáo dục mầm non: Tham gia tập huấn nâng cao năng lực chuyên môn giáo dục mầm non và Hội thảo “Nhân rộng các mô hình điểm chuyên đề xây dựng trường mầm non lấy trẻ làm trung tâm" do Bộ GDĐT tổ chức tại tỉnh Quảng Ninh. Tiếp tục theo dõi công tác quản lý, chỉ đạo các hoạt động chăm sóc và giáo dục trẻ trong hè 2024 tại các cơ sở giáo dục mầm non. Xây dựng kế hoạch tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn dành cho cán bộ quản lý – giáo viên mầm non năm 2024. Dự thảo các văn bản chỉ đạo nâng cao hiệu quả việc thực hiện chương trình giáo dục mầm non.
Công tác Quản lý chất lượng: Tổ chức chấm phúc khảo bài thi Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2024. Rà soát dữ liệu tốt nghiệp; chuẩn bị các báo cáo Bộ GDĐT, tỉnh, ban ngành. Họp xét tốt nghiệp THPT năm 2024. Chuẩn bị xây dựng kế hoạch công tác Quản lý chất lượng cho năm học 2024-2025. Thẩm định hồ sơ đăng ký đánh giá ngoài các bậc học. Tổ chức đánh giá ngoài các đơn vị bậc học mầm non, tiểu học, THCS, THPT. Thẩm tra, cấp phát văn bằng, chứng chỉ theo một cửa liên thông.
Kết quả Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2024: Tỷ lệ tốt nghiệp THPT toàn tỉnh bao gồm cả thí sinh tự do đạt 98,58% (tăng 1,47% so với năm 2023), trong đó khối THPT đạt 99,72% (tăng 0,38%), khối GDTX đạt 93,47% (tăng 5,46%).
Họp xét tuyển sinh vào lớp 10 Trường PTDTNT tỉnh năm học 2024-2025. Tổ chức xét duyệt kết quả tuyển sinh lớp 10 năm học 2024-2025 cho các trường THPT. Tham dự Hội khỏe Phù Đổng toàn quốc lần thứ X năm 2024 tại TP Hải Phòng, kết quả Đoàn vận động viên Đồng Nai xếp hạng nhất trong top 20 đơn vị khá với số điểm là 2000 điểm (xếp hạng 11/63 tỉnh, thành phố).

5. Giải quyết việc làm và đào tạo nghề
Trong tháng 8/2024, phối hợp các sở, ban, ngành và các doanh nghiệp dịch vụ việc làm đã giải quyết việc làm cho 9.361 lượt người. Lũy kế từ đầu năm đến nay giải quyết việc làm cho 75.305 lượt người, đạt 94,13% kế hoạch năm, tăng 22,81% so với cùng kỳ năm 2023.
Trong tháng 08, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn tỉnh tuyển mới đào tạo cho 9.250 học viên, lũy kế 8 tháng tuyển mới 52.262 học viên, đạt 80,40% kế hoạch năm, tăng 4,84% so với năm 2023.
Tốt nghiệp trong kỳ: Trong tháng các trường và Cơ sở giáo dục nghề nghiệp đã tốt nghiệp và có chứng chỉ 5.339 học viên. Lũy kế 8 tháng có 42.070/60.000 học viên tốt nghiệp, đạt 70,12% so với kế hoạch năm, giảm 0,62% so với cùng kỳ.

Trên đây là các nội dung chủ yếu về tình hình kinh tế - xã hội tháng 8 năm 2024 trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Cục Thống kê xin được thông báo."
"thongke.dongnai.gov.vn"

Atlas tỉnh Đồng Nai

Cổng TTĐT Chính phủ

Số lượt truy cập

Trong ngày:
Tất cả:

CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TỈNH ĐỒNG NAI

Cơ quan chủ quản: Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai.
Chịu trách nhiệm chính: Ông Nguyễn Kim Long – Chánh Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai.
Địa chỉ: Số 02 đường Nguyễn Văn Trị, phường Trung Dũng, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
Điện thoại: (0251).3847292.
Ghi rõ nguồn "Cổng Thông tin điện tử tỉnh Đồng Nai" hoặc "CTT-Đồng Nai" hoặc "www.dongnai.g​ov.vn" khi ​phát hành lại thông tin từ các nguồn này.​

ipv6 ready

Chung nhan Tin Nhiem Mang