(CTT-Đồng Nai) - Vì nhiều lý do, pháp luật lao động cho phép người lao động (NLĐ) và người sử dụng lao động (NSDLĐ) thỏa thuận được tạm hoãn hợp đồng lao động (HĐLĐ), nghỉ việc không hưởng lương. Tuy nhiên do không am hiểu sâu các quy định pháp luật nên NLĐ muốn biết, nghĩa vụ tham gia bảo hiểm xã hội (BHXH) của họ được pháp luật quy định ra sao đối với các trường hợp tạm hoãn, nghỉ không hưởng lương.
Luật gia Phạm Đình Đức (Hội Luật gia thành phố Biên Hòa) tư vấn pháp luật về lao động cho người dân
Luật gia Phạm Đình Đức (Hội Luật gia thành phố Biên Hòa) tư vấn pháp luật về lao động cho người dân
NLĐ thắc mắc về việc nghỉ, hoãn HĐLĐ
Chị Nguyễn Thị Thắm (làm việc trong Khu công nghiệp Amata, thành phố Biên Hòa) bày tỏ, Bộ luật Lao động năm 2019 cho phép NLĐ và NSDLĐ thỏa thuận tạm hoãn thực hiện HĐLĐ. Tuy nhiên, chị không lựa chọn hình thức tạm hoãn thực hiện HĐLĐ mà muốn xin nghỉ không hưởng lương dài ngày, như vậy có được hay không?
Trường hợp của anh Nguyễn Văn Tú (làm việc tại Khu công nghiệp Sông Mây, huyện Trảng Bom) muốn biết, HĐLĐ giữa anh và công ty là không xác định thời hạn, khi anh nhận được lệnh gọi nhập ngũ buộc phải tạm dừng HĐLĐ để thực hiện nghĩa vụ quân sự theo đúng quy định. Anh Tú tâm sự, với công việc làm đúng chuyên môn, môi trường làm việc phù hợp nên muốn tiếp tục gắn bó với công ty sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự. Vậy sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về, anh có được công ty nhận làm việc trở lại hay không?
Vấn đề này được luật sư Vũ Duy Nam (Đoàn Luật sư tỉnh) giải đáp, tại điểm a, khoản 1, Điều 30 Bộ luật Lao động năm 2019 quy định, NLĐ thực hiện nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ tham gia dân quân tự vệ thuộc trường hợp tạm hoãn thực hiện HĐLĐ. Do đó, trường hợp của anh Tú sẽ được tạm hoãn thực hiện HĐLĐ và được NSDLĐ nhận làm việc trở lại sau khi hết thời gian tạm hoãn HĐLĐ theo Điều 3, Bộ luật Lao động năm 2019.
Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày hết thời hạn tạm hoãn thực hiện HĐLĐ, anh Tú phải có mặt tại nơi làm việc và NSDLĐ phải nhận NLĐ trở lại làm công việc theo HĐLĐ đã giao kết nếu HĐLĐ còn thời hạn, trừ trường hợp hai bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định khác.
Riêng trường hợp của chị Nguyễn Thị Thắm, theo thông tin chị trình bày, chị thuộc trường hợp tạm hoãn thực hiện HĐLĐ theo điểm h, khoản 1, Điều 30 Bộ luật Lao động năm 2019 (thuộc trường hợp khác do hai bên thỏa thuận). Nhưng vì chị không muốn thực hiện tạm hoãn HĐLĐ mà muốn nghỉ theo hình thức việc riêng, nghỉ không hưởng lương theo Điều 115 Bộ luật Lao động năm 2019 nên phải đáp ứng các điều kiện sau: phải thông báo (xin phép) và phải được NSDLĐ đồng ý thì mới được nghỉ.
Nghỉ, hoãn từ 14 ngày trở lên không phải đóng BHXH tháng đó
Việc thỏa thuận tạm hoãn HĐLĐ không chỉ xảy ra đối với NLĐ mà có cả từ phía NSDLĐ. Bởi vì, có nhiều lý do NSDLĐ buộc phải thực hiện giải pháp thỏa thuận với NLĐ tạm hoãn thực hiện HĐLĐ trong một thời gian nhất định như: gặp khó khăn do thiếu hụt đơn hàng; chưa phục hồi được hoạt động sản xuất, kinh doanh; dôi dư lao động tạm thời…
Khoản 2, Điều 30 Bộ luật Lao động năm 2019 quy định, trong thời gian tạm hoãn thực hiện HĐLĐ, NLĐ không được hưởng lương và quyền, lợi ích đã giao kết trong HĐLĐ, trừ trường hợp hai bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định khác.
Còn tại khoản 3, Điều 115 Bộ luật Lao động năm 2019 có quy định, ngoài quy định tại khoản 1 và khoản 2, Điều 115 Bộ luật Lao động năm 2019, NLĐ có thể thỏa thuận với NSDLĐ để nghỉ không hưởng lương. Tức là ngoài các trường hợp NLĐ được nghỉ việc riêng mà vẫn hưởng nguyên lương (kết hôn; con đẻ, con nuôi kết hôn; cha mẹ, vợ/chồng, con chết...) thì NLĐ được nghỉ không hưởng lương một ngày và phải thông báo với NSDLĐ khi ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh, chị, em ruột chết; cha hoặc mẹ kết hôn; anh, chị, em ruột kết hôn.
“Do được NSDLĐ cho phép tạm hoãn HĐLĐ, nghỉ không hưởng lương và sẵn sàng nhận lại làm việc khi hết thời gian hoãn, nghỉ không lương, vậy thì tính thời gian tham gia bảo hiểm xã hội như thế nào?” - chị Phùng Văn Yến (làm việc tại Khu công nghiệp Biên Hòa 2) thắc mắc.
Luật gia Phạm Đình Đức (Hội Luật gia thành phố Biên Hòa) cho biết, theo khoản 3, Điều 85 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 thì NLĐ không làm việc và không hưởng tiền lương từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng thì không đóng bảo hiểm xã hội tháng đó. Thời gian này không được tính để hưởng bảo hiểm xã hội, trừ trường hợp nghỉ việc hưởng chế độ thai sản.