Thứ 6 - 26/02/2016
Màu đỏ Màu xanh nước biển Màu vàng Màu xanh lá cây
Cấp “sổ đỏ” cho người sử dụng đất có một trong nhiều loại giấy tờ khác nhau

(CTT-Đồng Nai) - Người đang sử dụng đất (SDĐ) có một trong các loại giấy tờ xác nhận về quyền SDĐ, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất sẽ được xem xét cấp giấy chứng nhận quyền SDĐ, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất (gọi tắt là “sổ đỏ”) theo quy định của Luật Đất đai năm 2024 (có hiệu lực từ ngày 1-8-2024).

Nông dân xã Sông Nhạn (huyện Cẩm Mỹ) thu hoạch sầu riêng
Nông dân xã Sông Nhạn (huyện Cẩm Mỹ) thu hoạch sầu riêng

Đồng thời, Luật Đất đai năm 2024 cũng cho phép người có quyền SDĐ có một trong các giấy tờ này nhưng bị mất, thất lạc và chỉ còn bản sao vẫn được xem xét cấp “sổ đỏ”.

Các giấy tờ không phải là “sổ đỏ”

Tại Điều 37 Luật Đất đai năm 2024 quy định rất nhiều loại giấy tờ chứng minh quyền SDĐ mà người SDĐ đang có để được xem xét cấp “sỏ đỏ”.
Theo đó, tại khoản 1, Điều 137 Luật Đất đai năm 2024 quy định, hộ gia đình, cá nhân đang SDĐ ổn định mà có một trong các loại giấy tờ được lập trước ngày 15-10-1993 sau đây thì được cấp “sổ đỏ” và không phải nộp tiền SDĐ: những giấy tờ về quyền được SDĐ do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Hoặc giấy chứng nhận quyền SDĐ tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính; giấy tờ chuyển nhượng quyền SDĐ, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở, nay được UBND cấp xã xác nhận đã SDĐ trước ngày 15-10-1993; sổ mục kê, sổ kiến điền lập trước ngày 18-12-1980 mà có tên người SDĐ.
 
Hay một trong các giấy tờ được lập trong quá trình thực hiện đăng ký ruộng đất theo Chỉ thị số 299/TTg ngày 10-11-1980 của Thủ tướng Chính phủ về công tác đo đạc, phân hạng và đăng ký ruộng đất trong cả nước do cơ quan nhà nước đang quản lý mà có tên người SDĐ, bao gồm: biên bản xét duyệt của Hội đồng Đăng ký ruộng đất cấp xã xác định người đang SDĐ là hợp pháp; bản tổng hợp các trường hợp SDĐ hợp pháp do UBND cấp xã hoặc Hội đồng Đăng ký ruộng đất cấp xã hoặc cơ quan quản lý đất đai cấp huyện, cấp tỉnh lập; đơn xin đăng ký quyền sử dụng ruộng đất; giấy tờ về việc chứng nhận đã đăng ký quyền SDĐ của UBND cấp xã, cấp huyện hoặc cấp tỉnh cấp cho người SDĐ. Giấy tờ về việc kê khai, đăng ký nhà cửa được UBND cấp xã, cấp huyện hoặc cấp tỉnh xác nhận mà trong đó có ghi diện tích đất có nhà…
 
Bên cạnh đó, tại khoản 3, Điều 137 Luật Đất đai năm 2024 cũng có quy định, hộ gia đình, cá nhân đang SDĐ ổn định mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp “sổ đỏ” và không phải nộp tiền SDĐ: giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền SDĐ hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa, nhà tình thương, nhà đại đoàn kết gắn liền với đất; giấy tờ thanh lý, hóa giá nhà ở gắn liền với đất ở; giấy tờ mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước theo quy định của pháp luật.

Cấp “sổ đỏ” cho trường hợp còn bản sao
 
Bà Nguyễn Thị Liên (ngụ xã Tân An, huyện Vĩnh Cửu) muốn biết, đất của bà có giấy tờ về việc kê khai, đăng ký nhà cửa được UBND tỉnh xác nhận mà trong đó có ghi diện tích đất có nhà. Tuy nhiên, do bản chính bị mất, chỉ còn bản sao thì có được xem xét cấp “sổ đỏ”?

Hay vấn đề của ông Nguyễn Văn An (ngụ xã Đắc Lua, huyện Tân Phú) trình bày, đất của ông đang sử dụng có giấy tờ nông, lâm trường quốc doanh về việc giao đất để làm nhà ở kết hợp với sản xuất nông, lâm nghiệp trước thời điểm 1-7-2004. Tuy vậy, ông đã làm mất bản chính, chỉ lưu giữ được bản sao. Nay ông có nhu cầu xin cấp “sổ đỏ”, vậy đất của ông có được xem xét cấp “sổ đỏ”?
 
Trao đổi về các thắc mắc nêu trên, luật sư Lê Văn Bá (Đoàn Luật sư tỉnh) cho biết, các trường hợp này sẽ được cơ quan có thẩm quyền xem xét cấp “sổ đỏ” khi có yêu cầu. Căn cứ để cấp “sổ đỏ” cho các trường hợp này được khoản 7, Điều 137 Luật Đất đai năm 2024 quy định khá cụ thể. Chẳng hạn, trường hợp của ông Nguyễn Văn An, bà Nguyễn Thị Liên mất bản chính giấy tờ đất, chỉ còn bản sao. Tuy vậy, việc SDĐ của ông, bà phải được UBND cấp xã nơi có đất xác nhận là đất sử dụng ổn định, không có tranh chấp thì mới được xem xét cấp “sổ đỏ” theo nguyện vọng.
 
Cũng theo luật sư Lê Văn Bá, tại khoản 7, Điều 137 Luật Đất đai năm 2024 còn quy định nhiều trường hợp khác khi hộ gia đình, cá nhân có bản sao một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5 và 6 Điều 137 Luật Đất đai năm 2024 mà bản gốc giấy tờ đã bị thất lạc và cơ quan nhà nước không còn lưu giữ hồ sơ quản lý việc cấp loại giấy tờ này, được UBND cấp xã nơi có đất xác nhận là đất sử dụng ổn định, không có tranh chấp sẽ được xem xét cấp “sổ đỏ”.
Ngoài trường hợp cấp “sổ đỏ” cho người SDĐ có các loại giấy tờ theo Điều 137 Luật Đất đai năm 2024. Luật Đất đai năm 2024 còn quy định cấp “sổ đỏ” đối với rất nhiều trường hợp khác như: đất không có giấy tờ (Điều 138), SDĐ vi phạm pháp luật đất đai trước ngày 1-7-2014 (Điều 139), đất được giao không đúng thẩm quyền (Điều 140).
Nhân Thái

CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TỈNH ĐỒNG NAI

Cơ quan chủ quản: Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai.
Chịu trách nhiệm chính: Ông Nguyễn Kim Long – Chánh Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai.
Địa chỉ: Số 02 đường Nguyễn Văn Trị, phường Trung Dũng, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
Điện thoại: (0251).3847292.
Ghi rõ nguồn "Cổng Thông tin điện tử tỉnh Đồng Nai" hoặc "CTT-Đồng Nai" hoặc "www.dongnai.g​ov.vn" khi ​phát hành lại thông tin từ các nguồn này.​

ipv6 ready

Chung nhan Tin Nhiem Mang