Thứ 6 - 26/02/2016
Màu đỏ Màu xanh nước biển Màu vàng Màu xanh lá cây
Tình hình Kinh tế - Xã hội tỉnh Đồng Nai tháng 7 năm 2023

(CTT-Đồng Nai) Ngày 07/8/2023,​ Cục Thống kê Đồng Nai thông báo tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Đồng Nai tháng 7 năm 2023 như sau:
Ảnh minh họa "Giao thông đô thị tại TT. Trảng Bom, H.Trảng Bom"
Ảnh minh họa ​ "Giao thông đô thị tại TT. Trảng Bom, H.Trảng Bom"

“1. Sản xuất công nghiệp
Bước sang tháng 7 tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vẫn đang tiếp tục khó khăn như các tháng đầu năm, đơn hàng sản xuất vẫn còn thiếu chưa có dấu hiệu khả quan hơn, các doanh nghiệp đã nỗ lực tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm duy trì sản xuất, vì vậy dự ước tháng 7 chỉ số sản xuất công nghiệp tăng nhẹ so tháng trước.
- Dự ước chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 7/2023 tăng 2,14% so tháng trước, Trong đó: Khai khoáng tăng 1,48%; Công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 1,76%; Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước tăng 10,07%; Cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước tăng 1,12%.
- Dự ước chỉ số sản xuất công nghiệp 7 tháng năm 2023 tăng 3,61% so cùng kỳ đây là mức tăng thấp nhất so với 7 tháng của nhiều năm qua, trong đó ngành khai khoáng tăng 4,77%; Công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 3,9%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước giảm 1,96%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước tăng 3,28%; Dự ước 7 tháng năm 2023 có 23/27 ngành sản xuất công nghiệp tăng so cùng kỳ nhưng hầu hết tăng thấp: Chế biến thực phẩm, đồ uống, Dệt; Sản xuất trang phục; Sản xuất da và các sản phẩm liên quan; Sản phẩm kim loại, sản xuất máy móc thiết bị.v.v. đây là những ngành công nghiệp chủ lực gặp khó khăn tăng trưởng thấp nên ảnh hưởng không nhỏ đến chỉ số sản xuất. Dự báo tình hình sản xuất công nghiệp những tháng cuối năm 2023 còn tiếp tục gặp khó khăn, chưa có dấu hiệu khả quan hơn.
Một số ngành công nghiệp chủ lực có chỉ số sản xuất 7 tháng năm 2023 đạt mức tăng khá so cùng kỳ như: Sản xuất đồ uống tăng 4,64%, Chế biến thực phẩm 5,83%; May mặc tăng 5,07%; sản xuất hóa chất tăng 3,87%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 7,03%.v.v…một số ngành sản xuất khác như: sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 5,78%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 3,22%; sản xuất kim loại đúc sẵn tăng 3,7%; sản xuất thiết bị điện tăng 4,3%, sản xuất máy móc thiết bị chưa phân vào đâu tăng 5,08%.v.v… Tuy nhiên mức tăng trưởng của các ngành này 7 tháng năm nay thấp hơn rất nhiều so với các năm trước.
Một số ngành sản xuất dự ước chỉ số sản xuất 7 tháng giảm so cùng kỳ như: Sản xuất điện tử, máy tính (-2,13%); Sản xuất phương tiện vận tải (-0,25%); Sản xuất giường, tủ, bàn, ghế (-4,78%); Sản xuất và phân phối điện, khí đột, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí (-1,96%) … nguyên nhân giảm do ảnh hưởng nguyên liệu đầu vào tăng cao, sản phẩm tiêu thụ khó khăn, đặc biệt ngành sản xuất giường tủ, bàn ghế nhiều doanh nghiệp đơn hàng rất ít, chưa có đơn hàng mới nên chỉ số sản xuất giảm mạnh so cùng kỳ. Riêng ngành sản xuất phân phối điện giảm so kế hoạch sản xuất theo phân bổ của tập đoàn Điện lực Việt Nam.
- Chỉ số sản phẩm công nghiệp: Dự ước tháng 7 năm 2023 có 23/24 sản phẩm chủ yếu tăng so với tháng cùng kỳ năm trước như: Cà phê các loại đạt 37,4 ngàn tấn, tăng 12,26%; thức ăn gia súc đạt 235,4 nghìn tấn, tăng 12,10%; nước ngọt các loại 22 triệu lít, tăng 5,26%; vải các loại đạt 48,9 triệu m2, tăng 11,46%, quần áo may sẵn đạt 19,7 triệu cái, tăng 6,35%, giầy dép các loại đạt 35,8 triệu đôi, tăng 8,45%.
Lũy kế 7 tháng năm 2023 có 18/24 sản phẩm công nghiệp chủ yếu có sản lượng tăng so cùng kỳ đó là: Đá xây dựng các loại 10.815,9 nghìn m3, tăng 4,77%; bột ngọt 164,2 nghìn tấn, tăng 5,84%; nước ngọt các loại 157,4 triệu lít, tăng 1,72%; sợi các loại 592,2 ngàn tấn, tăng 3,25%; Vải các loại 345,8 triệu m2, tăng 9,77%, quần áo may sẵn đạt 137,7 triệu cái, tăng 4,82%, giầy dép các loại 250,8 triệu đôi, tăng 4,86%, sản phẩm kim loại 246,1 ngàn tấn, tăng 4,91%,… nguyên nhân tăng thấp là do đơn hàng xuất khẩu sang các thị trường Mỹ và các nước EU giảm, cụ thể một số doanh nghiệp có quy mô sản xuất lớn như da giày, dệt may (công ty Changshin, Việt Vinh, Pouchen.v.v). mặt khác do ảnh hưởng nguyên liệu đầu vào tăng cao, sản phẩm tiêu thụ khó khăn. Đặc biệt ngành sản xuất giường tủ, bàn ghế nhiều doanh nghiệp từ đầu năm đến nay chưa có đơn hàng mới.
2. Sản xuất Nông - Lâm nghiệp và thủy sản
a) Nông nghiệp
Tình hình sản xuất nông nghiệp tháng 7 và 7 tháng cơ bản thuận lợi, thời tiết đang trong mùa mưa, một số địa phương bắt đầu vào đợt thu hoạch vụ Hè thu. Công tác phòng chống dịch bệnh cho cây trồng, vật nuôi luôn được các sở ban ngành địa phương quan tâm. Thị trường tiêu thụ nông sản ổn định, giá cả các mặt hàng có xu hướng tăng. Tuy nhiên vẫn gặp một số khó khăn đó là chi phí nguyên, vật liệu cho sản xuất nông nghiệp vẫn còn cao như phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thức ăn gia súc…. Kết quả hoạt động các lĩnh vực như sau:
Cây hàng năm: Tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm ước đến 15/7/2023 là 96.375,9 ha, giảm 296,75 ha (-0,31%) so với cùng kỳ. Nguyên nhân do diện tích gieo trồng vụ Đông Xuân giảm vì một số diện tích thu hoạch vụ Mùa chậm nên người dân chưa chuẩn bị các khâu làm đất để xuống giống, một số chân ruộng lúa cao không đủ nước để gieo trồng, hơn nữa hiện nay hầu hết diện tích gieo trồng có xu hướng giảm dần do công tác quy hoạch, xây dựng, cho thuê v.v… Trong đó: Diện tích lúa đạt 34.974,38 ha, giảm 0,06% (lúa Đông Xuân đạt 15.271,94 ha, lúa Hè Thu đạt 19.702,44 ha); Diện tích ngô đạt 23.021,58 ha, tăng 0,15%; Khoai lang đạt 141,43 ha, giảm 2,46%; Mía đạt 2.983,75 ha, giảm 5,93%; Rau các loại đạt 11.434,58 ha, tăng 0,07%; Đậu các loại đạt 2.315,39 ha, tăng 2,72% so với cùng kỳ.
Ước năng suất một số cây trồng chính tăng, giảm trong vụ so cùng kỳ như sau: Năng suất lúa đạt 63,97 tạ/ha, tăng 0,47%; bắp đạt 78,22 tạ/ha, tăng 1,18%; khoai lang đạt 118,46 tạ/ha, tăng 0,38%; đậu tương đạt 16,89 tạ/ha, tăng 3,94%; lạc 23,34 tạ/ha, tăng 0,09%; rau các loại 168,98 tạ/ha, tăng 2,04%; Năng suất đậu các loại đạt 14,09 tạ/ha, giảm 0,14%; mía đạt 711,68 tạ/ha, giảm 0,11%. Năng suất của một số cây trồng năm nay tăng là do ngành nông nghiệp đã phối hợp chặt chẽ với các địa phương trong công tác tuyên truyền, vận động người dân xuống giống đúng vụ, chủ động nguồn nước tưới, thực hiện tốt khâu chăm bón, phòng chống dịch bệnh nên không xảy ra thiệt hại.
Dự ước sản lượng thu hoạch 7 tháng đầu năm so với cùng kỳ như sau: Sản lượng lúa đạt 136.343 tấn, tăng 0,83%; bắp đạt 97.207,43 tấn, tăng 0,75%; khoai lang đạt 1.015,19 tấn, giảm 3,51%; sắn đạt 117.798,23 tấn, tăng 8,98%; mía đạt 82.884,47 tấn, giảm 20,64%; đậu tương đạt 294,87 tấn, tăng 6,25%; lạc đạt 1.059,54 tấn, tăng 0,65%; Rau các loại đạt 128.900,26 tấn, tăng 2,1%; Đậu các loại đạt 2.068,54 tấn, tăng 3,42% so với cùng kỳ.
Cây lâu năm: Trong tháng 7 năm 2023, tình hình sản xuất cây lâu năm trên địa bàn tỉnh tương đối ổn định, lượng mưa đều nên người dân tập trung trồng mới cây lâu năm và tập trung nhiều vào khâu chăm sóc, làm cỏ, bón phân, phun thuốc trừ sâu cho cây trồng. Hiện nay đang thu hoạch xoài, chôm chôm, sầu riêng, măng cụt, tiêu, điều, cao su…
Tổng diện tích cây lâu năm hiện có là 169.929,39 ha, tăng 0,08% so cùng kỳ. Trong đó: Cây ăn quả đạt 76.760,68 ha, tăng 0,53% và chiếm 45,17% so với tổng diện tích; Công nghiệp lâu năm đạt 93.168,71 ha, giảm 0,28% và chiếm 54,83% tổng diện tích. Hiện nay nhóm cây công nghiệp lâu năm như điều, tiêu, cao su có xu hướng giảm do người dân không đầu tư thâm canh và chăm sóc, một số diện tích bị chặt bỏ để chuyển sang trồng cây ăn quả và thực hiện các dự án theo định hướng phát triển của tỉnh.
Sản lượng một số cây lâu năm chủ yếu thu hoạch trong 7 tháng đầu năm như sau: xoài đạt 68.947,22 tấn (+0,75%); chuối đạt 111.582,36 tấn (+16,43%); thanh long đạt 6.793,1 tấn (+1,64%); bưởi đạt 41.361,24 tấn (+16,04%), nguyên nhân sản lượng tăng là do giá bán tại thời điểm này có xu hướng tăng, đặc biệt một số cây ăn quả đặc thù như chuối, bưởi có giá trị kinh tế cao, hơn nữa các chuỗi liên kết sản xuất gắn liền với việc tiêu thụ sản phẩm nông sản nhiều vùng chuyên canh, cánh đồng lớn, câu lạc bộ từng bước đi vào sản xuất ổn định, nên sản lượng tăng khá.
Chăn nuôi: Tổng đàn gia súc có đến thời điểm tháng 7/2023 là 2.791.271 con, tăng 0,27% so cùng kỳ. Trong đó: Trâu đạt 3.981 con, tăng 2,13%; Bò đạt 93.848 con tăng 4,37%; Số lượng đàn trâu, bò tăng là do sản phẩm thịt gia súc phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng xã hội cao, nên các hộ chăn nuôi trâu, bò đầu tư thêm con giống để nuôi, bên cạnh đó người dân cũng cải tạo đàn bò theo hướng bò thịt nhằm tăng thu nhập trong chăn nuôi; Đàn heo đạt 2.693.442 con (không tính heo con chưa tách mẹ), tăng 0,13% so cùng kỳ. Nguyên nhân đàn heo tăng là do giá heo hơi liên tục tăng trong những tháng gần đây, hầu hết các loại hình chăn nuôi có quy mô lớn ở thành phần kinh tế quốc doanh, đầu tư nước ngoài có đủ điều kiện an toàn cho công tác tái đàn, có quy trình đầu tư khép kín do chủ động được các khâu như con giống, thức ăn, chuồng trại, công tác phòng, chống dịch và bảo đảm được đầu ra sản phẩm do đó số lượng heo ở các đơn vị này tăng. Điều này cho thấy hiệu quả của việc tái đàn làm cho kết quả sản xuất đạt khá, chăn nuôi heo phát triển tốt. Giá heo hơi trên địa bàn tỉnh đến ngày 17/7/2023 dao động trong khoảng từ 58.000 đến 63.000 đồng/kg.
Dự ước sản lượng thịt gia súc 7 tháng đầu năm tăng so cùng kỳ, cụ thể: thịt trâu đạt 454 tấn, tăng 13,22%; thịt bò đạt 2.925 tấn, tăng 9,45%; thịt heo đạt 280.821 tấn, tăng 3,75%.
Tổng đàn gia cầm hiện có là 27.733 nghìn con, tăng 1,28% so cùng kỳ, trong đó gà đạt 25.556 nghìn con, tăng 2,29%. Sản lượng thịt gia cầm 7 tháng đầu năm ước đạt 115.352 tấn, tăng 7,74%, trong đó thịt gà 101.202 tấn, tăng 7,95%; Sản lượng trứng gia cầm ước đạt 732.266 nghìn quả, tăng 4,6% so cùng kỳ. Nguyên nhân đàn gà tăng so cùng kỳ là do thị trường tiêu thụ ổn định, giá cả hợp lý, thực phẩm an toàn, dịch bệnh không phát sinh, nên các trang trại đã chủ động tăng đàn, mở rộng quy mô chăn nuôi, so với các loại vật nuôi khác, chăn nuôi có lợi thế về hiệu quả kinh tế do vòng quay ngắn, hệ số nhân đàn nhanh.
Trong tháng không phát sinh các dịch bệnh trên gia súc, gia cầm. Công tác phòng chống dịch bệnh, kiểm dịch, kiểm soát giết mổ, vận chuyển gia súc, gia cầm, sản phẩm động vật ra vào tỉnh được kiểm soát chặt chẽ: triển khai công tác tiêu độc, khử trùng tại các cơ sở giết mổ và phương tiện vận chuyển động vật.
b) Lâm nghiệp
Tháng 7 mưa đều với lưu lượng mưa tương đối lớn, các đơn vị lâm nghiệp và chủ rừng tiếp tục tiến hành trồng lại diện tích rừng đã thu hoạch. Dự ước diện tích rừng trồng mới trong tháng 7/2023 đạt 450 ha, tăng 0,92% so với tháng cùng kỳ; lũy kế 7 tháng đạt 2.470 ha, tăng 1,55% so cùng kỳ. sản lượng gỗ khai thác dự ước đạt 30.036 m3, tăng 2,57% so với tháng cùng kỳ; Lũy kế 7 tháng đầu năm 2023 đạt 170.501 m3, tăng 2,18% so cùng kỳ, nguyên nhân tăng là do diện tích rừng sản xuất đã đến kỳ thu hoạch và một số diện tích khai thác tận thu dự án chuyển đổi quy hoạch.
Sản lượng củi khai thác dự ước tháng 7/2023 đạt 460 ste, tăng 2,02% so với tháng cùng kỳ; Lũy kế 7 tháng đầu năm 2023 đạt 1.907 ste, tăng 2,36% so cùng kỳ.
c) Thủy sản
Ước tính tổng sản lượng thủy sản tháng 7/2023 đạt 6.405,37 tấn, tăng 4,99% so tháng cùng kỳ; lũy kế 7 tháng ước đạt 41.737,62 tấn, tăng 4,48% so cùng kỳ. Trong đó: Sản lượng cá ước đạt 33.619,51 tấn, tăng 4,35%; Sản lượng tôm đạt 6.443,67 tấn, tăng 5,76%; Sản lượng thủy sản khác đạt 1.674,44 tấn, tăng 2,14%. Nguyên nhân tăng là do nhu cầu thị trường tiêu thụ xã hội ngày một tăng, sản phẩm thủy sản được người tiêu dùng sử dụng nhiều, giá bán sản phẩm thủy sản tăng cao, do đó mà nhiều hộ gia đình chủ động mở rộng diện tích nuôi trồng, áp dụng khoa học kỹ thuật, chăm sóc con giống, vật nuôi, nhằm hạn chế dịch bệnh phát sinh, nên sản lượng thủy sản tháng 7 và 7 tháng năm 2023 tăng khá so cùng kỳ.
3. Vốn đầu tư phát triển
Tình hình thực hiện vốn đầu tư phát triển trên địa bàn bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý 7 tháng năm 2023 có mức tăng trưởng khá so cùng kỳ. Mặc dù trong thực hiện gặp một số khó khăn như: công tác giải phóng mặt bằng chậm đã ảnh hưởng rất lớn đến tiến độ thực hiện các dự án, từ đó, gây khó khăn cho công tác thực hiện thi công công trình từ nguồn vốn đầu tư công. Bên cạnh vướng mắc về công tác giải phóng mặt bằng thì những hạn chế, yếu kém về năng lực của các nhà thầu thi công, các đơn vị tư vấn và sự phối hợp thiếu nhịp nhàng trong công tác thẩm định hồ sơ cũng được đánh giá là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến tiến độ giải ngân cũng như tiến độ thực hiện dự án, trong đó tình trạng trả đi trả lại hồ sơ làm kéo dài thời gian thực hiện các dự án diễn ra khá phổ biến. Dự ước thực hiện vốn đầu tư phát triển bằng nguồn vốn ngân sách Nhà Nước do địa phương quản lý tháng 7 năm 2023 thực hiện 922,2 tỷ đồng, tăng 6,91% so với tháng 6. Ước 7 tháng thực hiện 5.043,3 tỷ đồng, tăng 22,32% so cùng kỳ và bằng 38,92% so kế hoạch năm 2023.
4. Thu hút đầu tư và đăng ký doanh nghiệp
Tính từ đầu năm đến ngày 20/7/2023, thu hút đầu tư từ khu vực nước ngoài (FDI) đạt khoảng 702,76 triệu USD, tăng 0,34% so với cùng kỳ, trong đó: cấp mới 42 dự án với tổng vốn đăng ký 149,78 triệu USD (so với cùng kỳ năm 2022, tăng 2,2 lần về số dự án và bằng 54,6% về vốn đăng ký cấp mới) và 55 dự án tăng vốn với tổng vốn bổ sung 552,98 triệu USD (so với cùng kỳ năm 2022, tăng 25% số dự án và tăng gấp 2,2 lần về vốn bổ sung).
Tính từ đầu năm đến ngày 20/7/2023, tổng vốn đầu tư trong nước đăng ký cấp giấy chứng nhận đầu tư, chủ trương đầu tư (chưa bao gồm các dự án trúng đấu giá, đầu thầu) và điều chỉnh tăng, giảm vốn khoảng 6.708,67 tỷ đồng, gấp hơn 13,9 lần so với cùng kỳ năm 2022 (cùng kỳ năm 2022 đạt 482,27 tỷ đồng). Trong đó: cấp mới 17 dự án (trong khu công nghiệp 10 dự án, ngoài khu công nghiệp 07 dự án) với tổng vốn đăng ký là 5.932,56 tỷ đồng (tăng gấp 21 lần so cùng kỳ); có 07 dự án tăng vốn với số vốn bổ sung là 796,1 tỷ đồng (tăng 3,3 lần so cùng kỳ); có 01 dự án giảm vốn với số vốn giảm là 20 tỷ đồng. Lũy kế đến ngày 20/7/2023, số dự án còn hiệu lực là 1.091 dự án với số vốn hơn 313.041 tỷ đồng.
Tính từ đầu năm đến ngày 15/5/2023, tổng vốn đăng ký thành lập mới doanh nghiệp và bổ sung tăng vốn là 30.651 tỷ đồng, bằng 73,4% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó: có 2.099 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký khoảng 14.166 tỷ đồng (so với cùng kỳ năm ngoái, bằng 83,8% về số lượng doanh nghiệp thành lập mới và bằng 91,2% về số vốn thành lập mới) và 686 doanh nghiệp đăng ký tăng vốn với số vốn bổ sung khoảng 16.485 tỷ đồng. Ngoài ra có 1.118 Chi nhánh, địa điểm kinh doanh và văn phòng đại diện đăng ký hoạt động trên địa bàn tỉnh, bằng 89,5% so với cùng kỳ năm 2022.
Từ ngày 01/07/2023 đến ngày 15/07/2023, có 21 doanh nghiệp giải thể (đạt 65,6 % so với cùng kỳ) và có 29 Chi nhánh, địa điểm kinh doanh và văn phòng đại diện chấm dứt hoạt động (đạt 90,6 % so với cùng kỳ); 96 doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh (tăng 41,1 % so với cùng kỳ). Lý do giải thể và chấm dứt hoạt động và tạm ngừng kinh doanh chủ yếu là do kinh doanh không hiệu quả. Các doanh nghiệp này chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa, thuộc khu vực kinh tế tư nhân.
5. Thương mại du lịch, giá cả, xuất nhập khẩu và vận tải
Hoạt động thương mại dịch vụ trong tháng 7/2023 diễn ra khá sôi động khi bắt đầu bước vào mùa du lịch hè, do vậy doanh thu các ngành thương mại dịch vụ vẫn duy trì tăng trưởng so với tháng trước, giá các mặt hàng thiết yếu ổn định. Các đơn vị kinh doanh tiếp tục mở rộng thị trường giao thương hàng hóa và triển khai chương trình kích cầu tiêu dùng bằng nhiều hình thức như giảm giá, khuyến mãi… Sở Công thương, Sở NN-PTNT tổ chức và tham gia các chương trình xúc tiến thương mại, kết nối giao thương Đồng Nai cùng các tỉnh miền Đông Nam bộ tạo điều kiện giao thương giữa nhà cung cấp với các doanh nghiệp xuất khẩu nhằm hỗ trợ doanh nghiệp mở rộng thị trường, quảng bá sản phẩm tiềm năng xuất khẩu tới người tiêu dùng trong nước và quốc tế. Thời gian qua nhiều sản phẩm của địa phương được chứng nhận OCOP đã vươn ra thị trường nước ngoài.
Tình hình thương mại dịch vụ tháng 7 và 7 tháng như sau:
5.1. Thương mại dịch vụ
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 7 năm 2023 ước đạt 21.454,8 tỷ đồng, tăng 1,44% so tháng trước và tăng 11,75% so tháng cùng kỳ năm trước. Lũy kế 7 tháng ước đạt 148.836,05 tỷ đồng, tăng 13,96% so cùng kỳ. Phân theo ngành hoạt động như sau:
a) Bán lẻ hàng hóa
Doanh thu bán lẻ hàng hóa tháng 7 ước đạt 15.612,3 tỷ đồng, tăng 1,73% so tháng trước. Lũy kế 7 tháng năm 2023 ước đạt 108.528,9 tỷ đồng, tăng 11% so với cùng kỳ năm trước. Một số nhóm ngành hàng bán lẻ tăng so cùng kỳ: Lương thực tăng 8,43%, Hàng may mặc tăng 36,45%; Đồ dùng, dụng cụ, thiết bị gia đình tăng 11,85%; Vật phẩm, văn hóa, giáo dục tăng 23,95%; xăng dầu các loại tăng 11,88%;... Ngành Công Thương tỉnh tiếp tục Triển khai kịp thời và hiệu quả các chương trình xúc tiến thương mại, kết nối giao thương, kích cầu tiêu dùng trong nước thông qua đẩy mạnh áp dụng thương mại điện tử trong hoạt động lưu thông, phân phối hàng hóa, tập trung phát triển thị trường trong nước, mở rộng mạng lưới phân phối bán buôn, bán lẻ và đa dạng nhiều hình thức, hàng hóa, dịch vụ… đã góp phần tăng doanh thu ngành thương mại, dịch vụ trên địa bàn.
b) Lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành
Dự ước doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống tháng 7/2023 đạt 2.099,81 tỷ đồng, tăng 22,98% so với tháng cùng kỳ năm trước. Lũy kế 7 tháng ước đạt 14.385,88 tỷ đồng, tăng 23,01% so cùng kỳ. Trong đó: Doanh thu dịch vụ lưu trú tăng 61,08%; Doanh thu dịch vụ ăn uống tăng 22,67% so cùng kỳ.
Doanh thu du lịch lữ hành tháng 7/2023 ước đạt 5,7 tỷ đồng, tăng 1,42% so với tháng trước. Lũy kế 7 tháng ước đạt 39 tỷ đồng, tăng 179,7% so cùng kỳ.
c) Hoạt động dịch vụ
Doanh thu dịch vụ tháng 7/2023 ước đạt 3.737,08 tỷ đồng, tăng 0,72% so với tháng trước và tăng 20,68% so với tháng cùng kỳ. Lũy kế 7 tháng ước đạt 25.882,3 tỷ đồng, tăng 22,55% so cùng kỳ.
5.2. Giá cả thị trường
Tháng 7 năm 2023 tình hình giá cả nhiều mặt hàng tương đối ổn định và có mức tăng nhẹ so với tháng trước. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 7/2023 tăng 0,09% so với tháng trước (khu vực thành thị tăng 0,18%; khu vực nông thôn tăng 0,01%). Trong tháng có 4/11 nhóm hàng hoá tăng giá, trong đó:
- Hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,28%, đóng góp vào mức tăng chung của CPI là (+0,02%). Trong đó: Lương thực tăng 0,46%, tình hình xuất khẩu gạo trong nước có thuận lợi, giá xuất khẩu gạo tăng làm cho giá bán trong nước tăng so với tháng trước, bên cạnh đó do thời tiết bắt đầu chuyển sang mùa mưa nên chi phí phơi sấy và bảo quản tăng là nguyên nhân làm cho giá gạo trong tháng tăng, chỉ số giá nhóm gạo tăng 0,51%, giá gạo tẻ thường trong tháng dao động từ 12.855đồng/kg -14.978 đồng/kg; giá gạo tẻ ngon từ 16.783- 17.741 đồng/kg.
Giá thực phẩm tháng 7 tăng 0,37% so với tháng trước, nguyên nhân do ảnh hưởng của giá heo hơi tăng làm cho giá các mặt hàng thịt heo trong tháng 7 tăng 0,7%; giá các mặt hàng thịt gia cầm tăng 1,03%; các mặt hàng thuỷ sản tươi sống tăng 0,69% so với tháng trước. Giá rau tươi, khô và chế biến tăng 0,62% so với tháng trước. Do thời tiết mưa nhiều nên diện tích nhiều loại rau bị hư hại làm cho sản lượng cung cấp cho thị trường giảm trong khi nhu cầu tiêu dùng các mặt hàng này tăng nên giá bán tăng như: Bắp cải tăng 2,07%; su hào tăng 1,01%; cà chua tăng 1,09%; khoai tây tăng 4,31%... Riêng các mặt hàng quả tươi, chế biến giảm 1,85%, nguyên nhân là do đang vào vụ thu hoạch của nhiều loại trái cây nên nguồn cung trên thị trường dồi dào, người tiêu dùng có nhiều sự lựa chọn nên giá nhiều mặt hàng giảm như quả có múi giảm 1,68%; chuối giảm 1,32%; quả tươi khác giảm 2,37%...
- Chỉ số giá nhóm giao thông tháng 7 tăng 0,12% so với tháng trước góp phần làm cho mức tăng chung CPI trong tháng tăng 0,01%. Trong tháng, giá các dịch vụ giao thông công cộng tăng 5,13%, giá vận tải hành khách bằng đường sắt tăng 3,96%; vận tải hành khách bằng đường hàng không, tăng 26,17%. Ngượi lại giá các mặt hàng xe ô tô mới giảm 0,73% so với tháng trước do phí trước bạ được giảm nên các cửa hàng giảm giá bán để hỗ trợ cho khách hàng. Giá các mặt hàng nhiên liệu trong tháng giảm 0,04% trong đó giá xăng giảm 0,1%; giá dầu DO tăng 3,91% so với tháng trước do ảnh hưởng của giá xăng, dầu thế giới. Hiện tại giá xăng A95(III) bình quân là 21.942 đồng/lít; xăng E5 bình quân là 20.864 đồng/lít; dầu DO bình quân 18.738 đồng/lít.
Có 04 nhóm hàng hoá dịch vụ giảm so tháng trước là: May mặc, mũ nón, giầy dép (-0,06%), Nhà ở, điện, nuớc, chất đốt và VLXD (-0,31%), Thiết bị và đồ dùng gia đình (-0,06%), Văn hoá, giải trí và du lịch (-1,82%).
Các nhóm có chỉ số giá không biến động so tháng trước là: Đồ uống và thuốc lá, Thuốc và dịch vụ y tế và Giáo dục.
So với cùng tháng năm trước, CPI tháng 7/2023 tăng 0,78% so với tháng 7/2022. Trong 11 nhóm hàng tiêu dùng chính có 9 nhóm tăng giá, trong đó tăng cao nhất là nhóm giáo dục 8,23%; tăng thấp nhất nhóm văn hoá giải trí và du lịch tăng 0,02%. Có 02 nhóm hàng hóa giảm là giao thông giảm 9,75%; bưu chính viễn thông giảm 0,5%.
Chỉ số giá bình quân 7 tháng tăng 2,22% so với cùng kỳ năm trước, trong đó 09 nhóm hàng hoá tăng giá, tăng cao nhất nhóm Giáo dục (+10,74%); Văn hoá, giải trí và du lịch (+7,82%); Hàng ăn và dịch vụ ăn uống (+3,73%); Đồ dùng và dịch vụ khác (+3,49%); Đồ uống và thuốc lá (+3,21%); Thiết bị và đồ dùng gia đình (+2,89%); Nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng (+1,05%); May mặc, mũ nón và giày dép (+0,73%); Thuốc và dịch vụ y tế (+0,31%). Có 02 nhóm chỉ số giá giảm là giao thông giảm 6,06%; bưu chính viễn thông giảm 0,4%.
* Chỉ số giá vàng và Đô la Mỹ
Trong tháng giá vàng tăng 0,7% so với tháng trước; so với cùng tháng năm trước tăng 7,43%; so với tháng 12/2022 tăng 5,38%. Bình quân 7 tháng tăng 0,92% so với cùng kỳ.
Chỉ số giá Đô la Mỹ tháng 7 tăng 0,55% so tháng trước; so với cùng tháng năm trước giảm 1,24%; so với tháng 12 năm trước giảm 2,91%. Bình quân 7 tháng so cùng kỳ tăng 1,1%.
5.3. Xuất, nhập khẩu hàng hóa
Xuất khẩu hàng hóa tháng 7 mặc dù chưa hết khó khăn như 6 tháng đầu năm nhưng đã có xu hướng tăng nhẹ so với tháng trước, dự ước kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 7/2023 đạt 1,884,17 triệu USD, tăng 0,85% so với tháng trước. Tính chung 7 tháng xuất khẩu hàng hoá ước đạt 12.286,3 triệu USD, giảm 18,16% so cùng kỳ. Xuất khẩu hàng vẫn tiếp tục chịu ảnh hưởng tiêu cực do chịu tác động mạnh từ suy giảm kinh tế toàn cầu, biến động thị trường, điều chỉnh chính sách của các nền kinh tế lớn như Mỹ, châu Âu (EU), và nhiều nước khác phải gánh chịu mức lạm phát cao nhất trong mấy thập kỷ qua, làm giảm sức mua và thay đổi cơ cấu chi tiêu của các hộ gia đình… Trước khó khăn đó các doanh nghiệp xuất khẩu bên cạnh việc tiếp tục duy trì và đẩy mạnh liên kết với các doanh nghiệp khác tại các thị trường xuất khẩu chủ lực, chú trọng khai thác thị trường nội địa và tận dụng Hiệp định thương mại tự do (FTA) tìm kiếm thị trường mới… tuy nhiên kết quả thực hiện 7 tháng đạt thấp.
Một số nhóm hàng xuất khẩu 7 tháng tăng, giảm so cùng kỳ như sau: Hạt điều nhân (+37,21%); cà phê (+56,9%); cao su (+2,09%); Sản phẩm gỗ (-40,8%); Hàng dệt may (-19,22%); Giày dép các loại (-22,19%); Máy vi tính (-2,22%); Xơ, sợi (-25,3%); máy móc thiết bị và dụng cụ phụ tùng (-16,4%)… Nguyên nhân kim ngạch xuất khẩu giảm so cùng kỳ do tình hình kinh tế thế giới phục hồi chậm cùng với các chính sách thắt chặt tiền tệ, sức mua tại các thị trường lớn như: Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc... đều giảm khiến khối lượng đơn đặt hàng giảm; các doanh nghiệp xuất khẩu thiếu hụt đơn hàng sản xuất…
Kim ngạch nhập khẩu tháng 7 năm 2023 ước đạt 1.400,4 triệu USD, tăng 0,79% so tháng trước và giảm 19,04% so tháng cùng kỳ; lũy kế 7 tháng năm 2023 ước đạt 9.126,28 triệu USD, giảm 20,66% so cùng kỳ. Kim ngạch nhập khẩu 7 tháng tăng thấp so cùng kỳ, do thị trường xuất khẩu giảm, doanh nghiệp hạn chế nhập khẩu nguyên liệu sản xuất hàng xuất khẩu, bên cạnh đó giá cả nhiều mặt hàng trên thế giới có xu hướng tăng và đang ở mức cao, kèm theo các khoản chi phí cao, nên doanh nghiệp cân nhắc, tính toán chỉ nhập nguồn nguyên vật liệu cần thiết để sản xuất, đồng thời cũng tận dụng nguồn nguyên liệu sẵn có trong nước để giảm bớt chi phí.
Một số mặt hàng nhập khẩu chủ lực 7 tháng so cùng kỳ như: Thức ăn gia súc và nguyên liệu giảm 17,4%; Hóa chất giảm 35,71%; Chất dẻo nguyên liệu giảm 32,72%; Gỗ và sản phẩm từ gỗ giảm 45,42%; vải các loại giảm 23,14%; Nguyên phụ liệu dệt, may, da giày giảm 31,74%; Sắt thép các loại giảm 35,63%; Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện giảm 9,41%...
Cán cân thương mại hàng hóa tính chung 7 tháng năm 2023 xuất siêu ước đạt 3.160 triệu USD, bình quân mỗi tháng xuất siêu khoảng 451,4 triệu USD.
5.4. Giao thông vận tải
Hoạt động vận tải 7 tháng năm 2023 tăng trưởng khá, trên địa bàn tỉnh hiện nay đang có nhiều dự án xây dựng trọng điểm quốc gia đang tập trung triển khai thực hiện kịp kế hoạch năm, nên nhu cầu vận chuyển vật liệu xây dựng tăng cao. Bên cạnh đó bước vào mùa du lịch hè, nên nhu cầu đi lại tăng cao, làm cho doanh thu dịch vụ vận tải hành khách tăng.
Doanh thu vận tải, dịch vụ kho bãi, hỗ trợ vận tải tháng 7 năm 2023 ước đạt 2.492,3 tỷ đồng, tăng 0,74% so tháng trước và tăng 17,95% so cùng tháng năm trước. Tính chung 7 tháng doanh thu ước đạt 17.589,26 tỷ đồng, tăng 24% so cùng kỳ. Trong đó: doanh thu vận tải hành khách ước đạt 2.412 tỷ đồng, tăng 106,3%; doanh thu vận tải hàng hóa ước đạt 9.792,8 tỷ đồng, tăng 19,4%; doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 5.384,5 tỷ đồng, tăng 11,84% so cùng kỳ.
Sản lượng vận chuyển hành khách trong tháng 7 ước đạt hơn 5,87 triệu lượt khách, tăng 0,52% so tháng trước, tăng 6,9% so với cùng kỳ, lũy kế 7 tháng sản lượng ước đạt 43,18 triệu lượt khách, tăng 56,43% so cùng kỳ. Luân chuyển hành khách 7 tháng ước đạt 2.544,3 triệu HK.km tăng 86,3% so với cùng kỳ.
Sản lượng vận tải hàng hóa tháng 7 ước đạt 6,2 triệu tấn, tăng 0,64% so tháng trước, tăng 9,64% so với tháng cùng kỳ, lũy kế 7 tháng ước đạt 43,87 triệu tấn, tăng 12,31% so với cùng kỳ. Luân chuyển hàng hóa 7 tháng ước đạt 3.731,4 triệu tấn.km, tăng 13,51% so với cùng kỳ.
6. Hoạt động ngân hàng
Hoạt động huy động vốn: Tổng nguồn vốn huy động của các TCTD trên địa bàn ước đến 31/7/2023 đạt 294.581 tỷ đồng, tăng 2,38% so với đầu năm. Trong đó: Tiền gửi ước đạt 291.681 tỷ đồng, tăng 2,35% (tiền gửi bằng đồng Việt Nam ước đạt 271.500 tỷ đồng, tăng 2,25%; tiền gửi bằng ngoại tệ ước đạt 16.972 tỷ đồng, giảm 12,81%); Phát hành giấy tờ có giá ước đạt 2.900 tỷ đồng, tăng 6,15% so với đầu năm.
Hoạt động tín dụng: Dự ước đến 31/7/2023 tổng dư nợ cấp tín dụng trên địa bàn ước đạt 354.074 tỷ đồng, tăng 6,28% so với đầu năm (nợ xấu ước chiếm 1,31% trên tổng dư nợ cho vay). Trong đó: Tổng dư nợ cho vay ước đạt 351.815 tỷ đồng, tăng 6,32% (dư nợ bằng đồng Việt Nam ước đạt 299.700 tỷ đồng, tăng 4,06%; dư nợ bằng ngoại tệ ước đạt 51.200 tăng 19,38%); Giá trị các khoản đầu tư trái phiếu doanh nghiệp ước đạt 2.259 tỷ đồng, tăng 0,62% so với đầu năm.
Trong bối cảnh mặt bằng lãi suất thế giới tiếp tục tăng và neo ở mức cao, thực hiện chủ trương của Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về giảm lãi suất cho vay nhằm tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế, doanh nghiệp và người dân, NHNN đã liên tục điều chỉnh giảm 04 lần các mức lãi suất với mức giảm 0,5-2,0%/năm. Đến cuối tháng 06/2023, lãi suất tiền gửi và cho vay bình quân của các giao dịch phát sinh mới bằng VND của các ngân hàng thương mại (NHTM) giảm khoảng 1,0%/năm so với cuối năm 2022; các NHTM đã chủ động điều chỉnh và triển khai các chương trình/gói tín dụng ưu đãi để giảm lãi suất cho vay với mức giảm khoảng 0,5-3,0%/năm tùy đối tượng khách hàng đối với các khoản vay mới.
II. VĂN HÓA - XÃ HỘI
1. Văn hóa thông tin
Tháng 7 năm 2023, ngành VHTTDL tập trung tuyên truyền cổ động trực quan kỷ niệm các ngày lễ, phục vụ các nhiệm vụ chính trị bằng các hình thức thực hiện mộ maket tuyên truyền gửi cơ sở, treo cờ Đảng, cờ Tổ quốc; in treo cờ nội dung, cờ phướn, băng rôn, thay đổi nội dung pano hộp đèn, pano cố định….
2. Thể dục thể thao
Các đội tuyển tỉnh thực hiện kế hoạch tập huấn cho vận động viên chuẩn bị tốt lực lượng để tham gia các giải trong năm 2023. Các lớp năng khiếu của trường tham gia giải, cụ thể:
Giải quốc tế: tham gia 4 giải đạt 01 HCV, 02 HCĐ.
Giải quốc gia: tham gia 13 giải đạt 22 HCV, 23 HCB, 33 HCĐ
3. Y tế
Tình hình dịch bệnh: Trong tháng 7/2023, số ca mắc tay chân miệng là 1.304 ca, tăng gấp 2,75 lần so với tháng trước và giảm 7,25% so với tháng cùng kỳ; Lũy kế 7 tháng đầu năm là 2.215 ca, giảm 45,8% so với cùng kỳ, không ghi nhận ca tử vong. Sốt xuất huyết ghi nhận 291 ca, tăng 69 ca (+31,08%) so với tháng trước, không ghi nhận ca tử vong. Một số dịch bệnh khác như: Sởi, sốt rét, tả, ho gà, uốn ván… trong tháng không ghi nhận trường hợp mắc.
* Dịch Covid-19: Tình hình dịch bệnh cơ bản kiểm soát tốt trên địa bàn tỉnh, số ca mắc mới trong tháng giảm nhiều so với tháng trước, cụ thể từ ngày 20/6/2023 – 19/7/2023 ghi nhận 30 ca mắc bệnh trên địa bàn tỉnh, giảm 95,5% so với tháng trước (tháng trước ghi nhận 664 ca). Các ca nhiễm đều được giám sát, xử lý kịp thời đúng quy định, không lây lan thành ổ dịch lớn. Từ đầu năm 2023 đến nay, ghi nhận tổng số 2.518 ca mắc mới; 02 ca tử vong do COVID-19.
Công tác đảm bảo an toàn thực phẩm: Trong tháng 7/2023 thực hiện công tác kiểm tra, giám sát và tổ chức thanh tra, kiểm tra cơ sở sản xuất, chế biến thực phẩm, dịch vụ ăn uống và kinh doanh tiêu dùng thực phẩm 607 lượt cơ sở, trong đó: 593 cơ sở đạt (chiếm 97,69%); 14 cơ sở vi phạm (chiếm 2,31%), phạt tiền 01 cơ sở, số tiền phạt là 8 triệu đồng, nhắc nhở 13 đơn vị. Từ đầu năm đến nay không ghi nhận vụ ngộ độc thực phẩm.
4. Giáo dục
Tổ chức thi, chấm thi Tốt nghiệp THPT năm 2023, công tác chuẩn bị cho kỳ thi được thực hiện chặt chẽ, cơ sở vật chất, trang thiết bị tại điểm in sao đề thi và các điểm thi bảo đảm cho kỳ thi diễn ra bình thường và an toàn. Công tác phối hợp với các sở, ngành, địa phương, các tổ chức chính trị xã hội trong việc tuyên truyền, hỗ trợ tổ chức kỳ thi chặt chẽ và hiệu quả. Kết quả kỳ thi Tốt nghiệp THPT 2023 trên địa bàn tỉnh: Tổng số có 59 điểm thi với 1.426 phòng thi; Số thí sinh dự thi là 33.263 (tăng 2000 thí sinh so với năm trước) trong đó có 26.009 thí sinh hệ THPT và 7.254 thí sinh hệ giáo dục thường xuyên; Số cán bộ, giáo viên, nhân viên thực hiện công tác thi là 6.054 người; Lực lượng đảm bảo an toàn cho kỳ thi hơn 300 người. Kết quả tính đến 18/7/2023 (chưa qua phúc khảo) đạt 97,17%, điểm trung bình xếp thứ 39 trên cả nước. Trên địa bàn đã thu nhận hồ sơ phúc khảo thi Tốt nghiệp THPT năm 2023; Thu nhận hồ sơ phúc khảo và chuẩn bị tổ chức chấm phúc khảo thi tuyển sinh lớp 10 năm học 2023-2024.
5. Giải quyết việc làm và đào tạo nghề​​
Trong tháng 7/2023 đã giải quyết việc làm cho 8.537 lượt người, lũy kế từ đầu năm đến nay, toàn tỉnh đã giải quyết việc làm được 48.963/80.000 lượt người, đạt 61,20% kế hoạch năm, giảm 4,55% so với cùng kỳ.
Trong tháng 07, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn tỉnh tuyển mới đào tạo cho 9.671 học viên, trong đó: Cao đẳng là 556 người; Trung cấp 5.598 người; Sơ cấp và đào tạo thường xuyên là 3.517 người. Lũy kế từ đầu năm đến nay đã tuyển mới đào tạo 46.861/72.000 học viên, đạt 65,08% kế hoạch năm, tăng 0,59% so với cùng kỳ. Trong tháng các trường và Cơ sở giáo dục nghề nghiệp đã tốt nghiệp và có chứng chỉ 6.522 học viên, lũy kế từ đầu năm đến nay có 40.747/65.500 học viên, đạt 62,21% so với kế hoạch, tăng 0,09% so với cùng kỳ.
Trên đây là các nội dung chủ yếu về tình hình kinh tế - xã hội tháng 7 năm 2023 trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Cục Thống kê xin được thông báo.”
Theo "thongke.dongnai.gov.vn"

Atlas tỉnh Đồng Nai

Cổng TTĐT Chính phủ

Số lượt truy cập

Trong ngày:
Tất cả:

CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TỈNH ĐỒNG NAI

Cơ quan chủ quản: Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai.
Chịu trách nhiệm chính: Ông Nguyễn Kim Long – Chánh Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai.
Địa chỉ: Số 02 đường Nguyễn Văn Trị, phường Thanh Bình, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
Điện thoại: (0251).3847292.
Ghi rõ nguồn "Cổng Thông tin điện tử tỉnh Đồng Nai" hoặc "CTT-Đồng Nai" hoặc "www.dongnai.g​ov.vn" khi ​phát hành lại thông tin từ các nguồn này.​

ipv6 ready

Chung nhan Tin Nhiem Mang